Sự đền tội của trùm phản động Hoàng Cơ Minh (phần 1)
Cách đây gần 20 năm - ngày 28/8/1987, trên đường xâm nhập qua lãnh thổ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào để vào Việt Nam, nhằm thực hiện âm mưu bạo loạn, lật đổ chính quyền nhân dân, Hoàng Cơ Minh, nguyên Phó đề đốc quân đội Sài Gòn, kẻ cầm đầu tổ chức phản động gọi là "Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam", đã bị các lực lượng vũ trang cách mạng Lào phát hiện, truy đuổi và bắn bị thương tại vùng Bản Pon, tỉnh Xa La Van.
Sau đó, do lo sợ bị bắt, cũng như đoán trước được kết cục dành cho mình, Hoàng Cơ Minh tự sát.
Chiến dịch Đông tiến 2
Sau khi “chiến dịch Đông tiến 1” tổ chức hồi tháng 8/1986 thất bại, rồi bị cộng đồng người Việt hải ngoại vạch trần âm mưu bịp bợm vì thực chất của “chiến dịch” này, chỉ là đưa một nhóm tay chân về vùng rừng núi biên giới tiếp giáp giữa Thái Lan, Lào, dưới vỏ bọc công nhân liên doanh lâm nghiệp, và sau đó cho mặc quần áo rằn ri, vai đeo balô, tay cầm súng, lăn lê bò toài để quay phim, chụp ảnh, đưa về Mỹ tuyên truyền rằng, “mặt trận” đã thành lập được nhiều “khu chiến” bên trong lãnh thổ Việt Nam, thì Hoàng Cơ Minh, chủ tịch “Mặt trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt Nam” (từ đây gọi tắt là Mặt trận Hoàng Cơ Minh) cùng đám tay chân thân tín nhận ra rằng, trò lừa đảo của “mặt trận” đang có nguy cơ đổ bể.
Nếu như trước kia, hệ thống "phở Hòa" – là cơ quan kinh tài của “mặt trận”, có chi nhánh trên nhiều tiểu bang của nước Mỹ, liên tục kêu gào cộng đồng người Việt vào... ăn phở để góp phần ủng hộ “kháng chiến”, thì nay dù thúc ép, thậm chí hăm dọa, họ cũng chẳng vào. Những cuộc biểu tình do “mặt trận” tổ chức, người tham dự cũng ngày càng thưa thớt.
Đã thế, trong nội bộ “mặt trận” lại xuất hiện sự chống đối, nhiều người thẳng thừng gọi tổ chức Hoàng Cơ Minh là “kháng chiến tái nạm béo”, Hoàng Cơ Minh là chủ tịch lừa.
Vì thế, tên trùm phản động quyết tâm tiến hành một chiến dịch nữa nhằm tạo tiếng vang và lấy lại uy tín, hầu dễ bề quyên góp tiền bạc. Đầu tháng 7/1987, y cho di chuyển khoảng 130 người (cả số đang còn nằm lại ở biên giới Thái Lan, Lào sau “chiến dịch Đông tiến 1”, lẫn số từ Mỹ sang), đến một khu rừng thuộc tỉnh U Bon – Thái Lan, rồi móc nối với bọn thổ phỉ người Lào để thuê bọn này dẫn đường vượt qua đất Lào.
Theo kế hoạch – được Hoàng Cơ Minh đặt tên là “chiến dịch Đông tiến 2”, nhóm phản động chia thành 4 bộ phận: Đó là “Quyết đoàn tiền phương”, gồm 40 tên do Phan Thanh Phương làm quyết đoàn trưởng (mỗi quyết đoàn lại chia thành nhiều dân đoàn, mỗi dân đoàn gồm 9, 10 tên), có nhiệm vụ mở đường. “Quyết đoàn Bắc Bình”, gồm 29 tên do Lê Đình Bảy làm quyết đoàn trưởng, đi giữa. Bộ chỉ huy chiến dịch gồm Hoàng Cơ Minh, Nguyễn Huy, Trần Khánh, Võ Hoàng (là ủy viên trung ương mặt trận) cùng một số tên chóp bu khác.
Nhóm phản động "tuyên thệ" trước khi xâm nhập.
Đi sau cùng là “Quyết đoàn Anh dũng” gồm 40 tên, do Khu Xuân Hưng làm quyết đoàn trưởng. Các quyết đoàn ngoài vũ khí cá nhân như súng AK, M16, lựu đạn, mìn claymore, còn có một hoặc hai khẩu B40, B41, và vài máy bộ đàm tầm hoạt động khoảng 3km.
Tất cả những thứ ấy, bọn chúng mua lại từ các nhóm thổ phỉ Lào hoặc từ các chợ trời vũ khí dọc theo biên giới Lào, Thái Lan. Riêng bộ chỉ huy của Hoàng Cơ Minh, còn được trang bị thêm 2 khẩu cối cá nhân M79. Quần áo, giày dép, mũ nón chúng sử dụng cũng vậy, hầu hết đều mua ở chợ trời biên giới với đủ chủng loại.
Về lương thực, mỗi tên mang trên lưng 20 - 30 kg, gồm gạo, mì ăn liền, mắm muối, nồi niêu xoong chảo. Bên cạnh đó, các quyết đoàn còn được cấp một ít tiền kíp để mua lương thực nếu đi ngang thôn bản người Lào. Riêng các quyết đoàn trưởng và các ủy viên mặt trận, Hoàng Cơ Minh giao cho mỗi tên từ 2 đến 5 lượng vàng, một số USD và đồng bạt Thái Lan để... hối lộ bộ đội Lào nếu bị bắt!
Theo kế hoạch, cả bọn sẽ vượt sông Mê Kông, sang tỉnh Xa La Van – miền
23 giờ ngày 18/7/1987, nhóm phản động Hoàng Cơ Minh lên đường, đi đầu là “Quyết đoàn Tiền phương”. Càng đến gần biên giới Thái - Lào, bọn chúng càng hoang mang, lo sợ, nhất là những tên chỉ huy các quyết đoàn, dân đoàn vì chúng biết chuyến đi này không phải để dàn cảnh, quay phim, mà dữ nhiều, lành ít. Khi chỉ còn cách điểm tập kết là bờ sông Mê Kông ngăn đôi hai nước Lào, Thái Lan chừng 3km, Hoàng Cơ Minh sai “Quyết đoàn trưởng quyết đoàn Tiền phương” Phan Thanh Phương, cử một dân đoàn đi trinh sát.
Thế nhưng, 9 gã trong dân đoàn ấy chỉ đi khoảng 300 mét, rồi lủi vào bụi rậm nằm chờ đến giờ quay về báo cáo. Tuy nhiên lúc quay về, thì một tên trong “dân đoàn” bỗng dưng biến mất. (Do quá sợ hãi, gã vứt bỏ toàn bộ lương thực, súng ống, vạch rừng mò ngược trở lại rồi sau một thời gian sống chui lủi, khi nghe tin toàn bộ nhóm xâm nhập đã bị bắt hoặc bị giết, gã dạt về Campuchia, chạy xe ôm kiếm sống, cạch mặt “mặt trận” tới già).
Tin một gã “dân đoàn viên” bỏ trốn được Phạm Thanh Phương giấu kín vì sợ bị Hoàng Cơ Minh trừng trị mặc dù y rất lo gã kia ra hàng chính quyền, bộ đội cách mạng Lào. Trong suốt ngày thứ hai, rồi ngày thứ ba của cuộc xâm nhập, Phương đứng ngồi không yên, lúc nào cũng nơm nớp.
Đám thổ phỉ Lào ở riêng một góc, lo sợ không kém vì chúng được trả tiền để dẫn đường, nhưng Hoàng Cơ Minh dùng dằng nửa đi, nửa ở khiến chúng như ngồi trên chảo lửa. Chúng không biết Hoàng Cơ Minh đang chờ một bộ phận nữa, là “đoàn đặc nhiệm” do Nguyễn Quang Phục, biệt danh Hải “xăm” cầm đầu.
Đoàn đặc nhiệm này chỉ gồm 7 tên nhưng hầu hết đã từng tham gia các sắc lính trong quân đội Sài Gòn nên dạn dày kinh nghiệm, được Hoàng Cơ Minh đặc biệt tin tưởng. Thế nhưng, lúc nghe tin Hải “xăm” không đến điểm hẹn vì bất ngờ lên cơn sốt rét, và cả “đoàn đặc nhiệm” còn cách nơi tập kết khá xa, nên Hoàng Cơ Minh đành ra lệnh cho Hải “xăm” khi nào hết sốt, sẽ dẫn quân đuổi theo các “quyết đoàn”. Việc Hải “xăm” bị sốt ít nhiều gây hoang mang trong hàng ngũ, và có tin đồn truyền tai nhau, rằng sốt chỉ là cái cớ để Hải “xăm” được nằm lại. --PageBreak--
Xẩm tối ngày 20/7/1987, Hoàng Cơ Minh cùng bọn phản động nhắm hướng sông Mê Kông thẳng tiến. Tại đây, nhóm thổ phỉ Lào đã thuê sẵn mấy chiếc ghe máy, mỗi chiếc có thể chở được 30 người nên việc vượt sông diễn ra êm ả. Nhưng ở bờ bên kia, là những vách đất cao, trơn trợt nên đám phản động phải mất hơn 10 phút mới trèo lên được.
Sau này, khi bị bộ đội cách mạng Lào bắt, nhiều tên phản động khai rằng, tinh thần của hầu hết các “dân đoàn viên” đã rệu rã ngay từ khi vượt sông, và chúng cầu mong chỉ vào sâu trong đất Lào chừng vài cây số để quay phim, chụp hình rồi rút về như “chiến dịch” trước. Thậm chí có tên trong khi trèo lên con dốc dựng đứng ở bờ sông, đã lén vứt đi mìn, lựu đạn và đạn.
Có tên giả bộ ngã trặc chân để mong được cho ở lại. “Dân đoàn viên” Nguyễn Văn Náo khai: “Lúc vượt sông, lợi dụng trời tối không ai để ý, tôi thả xuống nước 2 băng đạn và 1 quả lựu đạn. Tôi tính nếu đụng trận, tôi sẽ tìm cách trốn về Thái Lan”.
Vượt qua được bờ dốc, Hoàng Cơ Minh cho cả bọn nghỉ đêm. Bên các bụi tre, chúng ngủ chập chờn trong tư thế ngồi co quắp. Mờ sáng, sau khi nhai trệu trạo nắm mì gói vì không dám nổi lửa, chúng đi ngang một trảng lớn, cỏ mọc lưa thưa rồi bắt đầu leo lên dãy núi đá, sườn núi đầy những bụi cây nhỏ lúp xúp.
Đến 9 giờ, khi bọn phản động đang ở ngang lưng chừng núi thì bất ngờ trên trời có tiếng động cơ máy bay, rồi một chiếc máy bay trinh sát xuất hiện khiến đám phản động đứa lủi vào bụi cây, đứa lăn ra đất nằm im như chết.
Thoạt đầu, Hoàng Cơ Minh cùng bộ chỉ huy nhận định đây là sự trùng hợp ngẫu nhiên. Nhưng khi thấy chiếc máy bay đảo đi đảo lại hai, ba vòng, chúng liền đặt câu hỏi, rằng đó chỉ là nhiệm vụ hàng ngày của Không quân cách mạng Lào trên vùng biên giới, hay chúng đã bị lộ?
Khoảng 10 phút sau, chiếc máy bay trinh sát biến mất, Hoàng Cơ Minh ra lệnh tiếp tục lên đường vì y tin rằng sự xuất hiện của chiếc máy bay chỉ là sự tình cờ. Các “quyết đoàn”, “dân đoàn” lầm lũi bước, mắt dáo dác nhìn chung quanh. Gần tối, khi đến cạnh một con suối lớn, Hoàng Cơ Minh cho dừng chân, bố trí đội hình phòng thủ và nấu cơm.
Bữa cơm một phần ăn với mắm kem còn phần kia nắm lại, để dành hôm sau. Bốn năm gã – trong đó có Nguyễn Văn Dũng lén lút mang theo được mấy bi đông rượu từ đất Thái, giờ tụm lại dưới bụi cây, chuyền tay nhau tu. Bị “dân đoàn trưởng” là Đỗ Bạch Thố phát hiện, chửi bới, Dũng toan chụp khẩu M16, lia cho Thố một băng nhưng đồng bọn ngăn cản. Sau này khi Dũng kiệt sức, chính tay Đỗ Bạch Thố đã dùng dây giày, xiết cổ Nguyễn Văn Dũng đến chết để trả thù hành động Dũng định bắn mình.
Sáng ngày thứ 5 của chuyến xâm nhập, bọn phản động khởi hành sớm. Lúc mặt trời lên, chúng nhận ra địa hình đang đi khá trống trải và nếu xảy ra đụng độ, sẽ chẳng khác gì phơi lưng ra làm bia. Hỏi nhóm thổ phỉ Lào dẫn đường, thì chỉ nhận được câu trả lời là cứ đi tiếp. Y như rằng, khoảng 8 giờ sáng, ở cuối đội hình bọn phản động bỗng vang lên từng loạt súng.
Trận chạm súng giữa bộ đội cách mạng Lào và nhóm phản động đi đoạn hậu diễn ra rất ngắn, cả hai bên không ai thương vong nhưng chứng tỏ rằng việc xâm nhập đã bị lộ và điều này khiến tinh thần của hầu hết bọn chúng đều hoang mang. Bất lợi hơn nữa là theo kế hoạch, các dân đoàn, quyết đoàn sẽ tìm cách tiếp cận với những bản làng người Lào trên đường đi qua để mua thức ăn tươi, cũng như tìm hiểu tình hình.
Nhưng nay cuộc chạm súng đã khiến chúng phải lùi sâu vào rừng trong lúc gạo, mì bắt đầu vơi dần. Đã vậy, một số tên từ Mỹ, Pháp, Nhật về, do không quen với khí hậu, địa hình, không quen với cuộc di hành chỉ bằng đôi chân nên đâm ra cáu kỉnh. Hầu như lúc nào cũng có những cuộc cãi vã – không ở dân đoàn này thì cũng ở quyết đoàn khác. Hơn 100 tên xâm nhập nhưng chỉ có 1 y tá. Các vết lở loét ở chân do giày thấm nước, vết rách ở tay, ở cổ do đá cắt, gai cào, muỗi đốt, vắt cắn, chỉ được rửa ráy, băng bó sơ sài nên nhiều tên bị nhiễm trùng, bước đi phải có kẻ xốc nách hoặc chống gậy.
Sau cuộc chạm súng, Hoàng Cơ Minh hạ lệnh đi nhanh hơn. Đến 4 giờ chiều, lúc lên tới một triền núi và khi nhóm phản động chuẩn bị dừng chân qua đêm, thì vài gã dân đoàn viên thuộc “Quyết đoàn Anh dũng” mò xuống những bụi tre phía dưới kiếm măng tươi. Chỉ vài phút sau đó, đột ngột tiếng súng AK nổ từng loạt dài, cùng tiếng la hét inh ỏi.
Lúc bọn lấy măng tháo chạy về, kiểm điểm lại thấy mất Nguyễn Văn Náo. Theo lời bọn chúng, một toán bộ đội cách mạng Lào đã bí mật bám theo, rồi bất ngờ tập kích, bắt sống Nguyễn Văn Náo. Điều này rất nguy hiểm vì Hoàng Cơ Minh nhận định, nếu Náo bị bắt, toàn bộ kế hoạch xâm nhập cũng như lực lượng và trang bị vũ khí của cả đoàn, coi như hoàn toàn bị lộ.
Đã đâm lao thì phải theo lao. Quay về cũng dở mà ở cũng không xong, Hoàng Cơ Minh ra lệnh đi tiếp. Đường đi càng lúc càng khó vì phải leo lên những tảng đá, tảng nọ chồng tảng kia. Sẩm tối, khi toán đoạn hậu báo cáo không thấy dấu hiệu bộ đội cách mạng Lào đuổi theo, Hoàng Cơ Minh mới dám cho dừng chân nấu cơm gần một con suối.
Để đề phòng, y chỉ thị cho các quyết đoàn trưởng, là từng dân đoàn lần lượt cử người xuống suối lấy nước chứ không đi đồng loạt. Lúc này, nhiều bếp lửa đã được nhóm lên, “dân đoàn viên” Trần Văn Thảo đang ngồi hong khô đôi giày thì phát hiện bóng người thấp thoáng. Gã hỏi lớn: “Ai đó?". Phía bên kia đáp lại một chữ ngắn gọn, nghe như tiếng Lào, rồi lập tức, hàng loạt đạn AK quạt xối xả vào đội hình bọn phản động, kèm theo những tiếng nổ tức ngực của đạn B40. Một quả B40 nổ ngay cạnh bếp cơm của “dân đoàn viên” Nguyễn Văn Hòa khiến gã bật ngửa, đầu tung tóe máu.
Đến lúc ấy, cả bọn phản động vẫn không hay biết, rằng chúng đã bị một tổ dân quân Lào tuần tra biên giới phát hiện ngay từ khi chúng đang vượt sông Mê Kông. Và bởi vì lực lượng ở khu vực đó mỏng, hơn nữa chưa rõ nhóm phản động vượt sông có phải là nhóm đi đầu mở đường cho những nhóm tiếp theo hay không, nên bộ đội cách mạng Lào quyết định chỉ cử một toán nhỏ bám theo, trinh sát, tìm cách bắt tù binh đưa về khai thác, điều tra...
(Còn tiếp)