Kim Vân Kiều truyện: Tiêu diệt Từ Hải, Hồ Tôn Hiến bị báo oán

Thứ Sáu, 04/11/2016, 14:35
Diệt được Từ Hải, Vương Trực, Hồ Tôn Hiến uy danh vang dội, được triều đình trọng thưởng, thăng hàm Thái tử Thái bảo. Nhưng cũng từ đây tai họa dồn dập đổ xuống đầu viên tổng đốc lắm mưu ma chước quỷ.

Vương Trực bị giết, hơn 3.000 tinh binh của Vương đóng ở Sầm Cảng đều nghiến răng quyết chí báo thù. Mao Hải Phong cho đem con tin Hạ Chính ra xẻo thịt nơi đầu thuyền, chửi mắng quân Minh bội ước.

Hồ Tôn Hiến đau đớn lập đàn tế nơi bờ biển. Quân Vương Trực thực hiện cuồng sát, đánh phá từ Triều Châu đến Phúc Châu, quân triều đình do Nguyễn Ngạc chỉ huy không sao địch nổi phải đem 2 vạn lượng bạc cùng 6 chiếc thuyền mới làm quà tặng để đổi sự bình yên.

Lúc này do mất Vương Trực, các nhóm hải khấu như "quần long vô thủ", nổi dậy quấy phá khắp nơi, giăng cờ báo thù cho Lão thuyền chủ, không ai còn nghe lời chiêu an nữa. Triều đình khiển trách Hồ Tôn Hiến nặng nề. Thời điểm này, Hồ Tôn Hiến đã mất chỗ dựa trong triều do cha con Nghiêm Tung bị xử tội phản quốc, còn Triệu Văn Hoa đã chết. Biết vua Gia Tĩnh là người mê đạo thuật, Tôn Hiến mấy lần dâng hươu trắng là vật mang điềm lành, khiến vua đẹp dạ làm lễ cáo thái miếu, ban thưởng chứ không trách tội, nhưng thế của Tôn Hiến đã suy.

Vua Vĩnh Lạc triều Minh.

Từ năm 1559, La Gia Tân, Bàng Thượng Bằng phụng chiếu đi điều tra thực trạng vùng Đông Nam, nơi Tôn Hiến chuyên quyền trong nhiều năm. Sớ dâng lên rằng Tôn Hiến chiếm đoạt công khố đến hơn 30.000 lạng bạc, lại tiêu hủy hết sổ sách. Triều đình xét hỏi, Tôn Hiến biện bạch rằng: "Thần hết lòng trừ giặc, phải sử dụng gián điệp và tiền bạc để mua chuộc. Nếu không bỏ ra cái lợi nhỏ thì không thể thành mưu lớn". Vua cho là phải, phong Tôn Hiến làm Thượng thư bộ Binh. Hiến lại dâng lên hai con rùa trắng và linh chi ngũ sắc.

Cuối năm 1562, dưới sự chỉ đạo của tân Thủ phụ Từ Giai, Cấp sự trung Nam Kinh là Lục Phụng Nghi dâng sớ tố cáo Hồ Tôn Hiến 10 trọng tội như tham nhũng quân lương, trưng lạm thuế khóa, cùng phe Nghiêm đảng... Do áp lực của nhiều đại thần vốn căm thù Nghiêm Tung, Minh Thế Tông hạ lệnh bãi mọi chức vụ của Tôn Hiến, áp giải về Kinh. Vua niệm tình công lao chống Oa khấu nên thay đổi chủ ý, hạ chiếu rằng Tôn Hiến không thuộc phe đảng Nghiêm Tung, xá tội cho về quê cũ ở Long Châu, Tích Khê.

Nhưng Hồ Tôn Hiến về quê được 2 năm thì kẻ thân tín là La Long Văn mắc tội, khi khám xét nhà thì quan ngự sử Uông Nhữ Chính phát hiện có bức thư của Tôn Hiến gửi Long Văn nhờ "chạy án" với Nghiêm Thế Phan là con của Nghiêm Tung.

Thư thể hiện lòng biết ơn và trung thành của Hồ Tôn Hiến với cha con Nghiêm Tung, lại còn phụ theo một bức soạn giống như thánh chỉ. Đến mức này thì vua Gia Tĩnh nổi giận, giáng chỉ hỏi tội. Tháng 10-1565, Hồ Tôn Hiến bị bắt vào ngục lần thứ hai. Trong ngục, Tôn Hiến viết "Biện vu sớ" dâng lên, nhưng không có kết quả.

Mao Khôn, mưu sĩ của Hồ Tôn Hiến.

Ngày mùng 3-11-1565, Hồ Tôn Hiến viết mấy dòng tuyệt mệnh: "Bảo kiếm mai oan ngục/ Trung hồn nhiễu bạch vân" (Gươm báu chôn ngục oan/ Hồn trung cuộn mây trắng), rồi tự sát, lúc ấy mới 54 tuổi. Đến năm Long Khánh thứ 6 (1572), Hồ Tôn Hiến được minh oan, truy phong dật hiệu là Tương Mậu.

Minh sử đánh giá Hồ Tôn Hiến là "nhiều quyền biến, mê công danh, từ quen biết Triệu Văn Hoa mà liên kết với cha con Nghiêm Tung, hàng năm dâng hiến vàng bạc, mỹ nữ, đồ xa xỉ vô số... Tính hiếu khách, thường mời sĩ phu đông nam đến bàn việc, do đó danh tiếng dậy lên...  Nhưng đặt thêm lao dịch, tăng thuế khóa, dân chúng khốn khổ; còn việc chiếm đoạt của công, vơ vét tài sản của phú hào thì rất nhiều".

Đời Thanh, nhà sử học Cốc Ứng Tần có bình rằng: "Hồ Tôn Hiến tuy vung dao tự sát cũng không mặt mũi nào gặp hai cường tặc Từ Hải, Vương Trực nơi âm cảnh. Nói mà thất tín, dối trá lập công, cuối cùng cũng không có kết thúc tốt đẹp".

Còn một người nữa gắn liền với cuộc đời Từ Hải, đó là Vương Thúy Kiều, nói theo kiểu giang hồ, là áp trại phu nhân. Trong Minh sử không thấy nhắc đến, trong "Kỷ tiễu trừ Từ Hải bản mạt" (Chép đầu đuôi việc dẹp trừ Từ Hải) của quan Phó sứ Mao Khôn (1512-1641), mưu sĩ của Hồ Tôn Hiến tham gia bình loạn Từ Hải, chỉ có nhắc đến việc bắt hai thị nữ của Từ Hải đều họ Vương là Thúy Kiều và Lục Châu.

Cảnh quân Từ Hải nhập thành.

Trong những tác phẩm văn học về sau này thì Thúy Kiều vụt tỏa sáng trở thành một trang kỳ nữ. Xuất thân của Vương Thúy Kiều có nhiều thuyết khác nhau, hoặc là con nhà nghèo, hoặc là con nhà quan thất thế… nhưng tựu trung đều thống nhất rằng Kiều là người Lâm Truy, Sơn Đông, xinh đẹp, đàn hay hát giỏi, trở thành danh kỹ đất Kim Lăng và ảnh hưởng đến sự thành bại của Từ Hải.

Có thể nói rằng, tên tuổi của Vương Thúy Kiều trở nên vang dậy từ sau cái chết của Từ Hải. Văn chương thi từ thời Minh, Thanh đã khiến Thúy Kiều tỏa sáng rực rỡ, trong khi chính sử chỉ hiện diện một cái tên.

Đề tài về mối duyên tình và kết cục bi thương giữa một tướng cướp lừng danh với một ca kỹ nổi tiếng đã được khai thác triệt để theo nhiều hướng khác nhau.

Bài thơ tuyệt mệnh của Thúy Kiều

Kể từ sau "Kỷ tiễu trừ Từ Hải bản mạt" của Mao Khôn nhắc đến tên họ thị nữ Vương Thúy Kiều, tiếp đó là hàng loạt tác phẩm như truyện "Vương Kiều Nhi" của Vương Thế Trinh; "Ngu Sơ tân chí" của Trương Triều; "Bại thuyết" của Tống Khởi Phụng; "Hồ tổng đốc khéo dùng Hoa Lệ Khanh, Vương Thúy Kiều chết báo Từ Minh Sơn" trong Hình thế ngôn của Lục Nhân Long; "Hồ thiếu bảo bình Oa chiến công" trong Tây Hồ nhị tập của Châu Thanh Nguyên; "Vương Thúy Kiều truyện" của Dư Hoài… đều xoay quanh chuyện ân oán tình thù của bộ ba Từ Hải - Vương Thúy Kiều - Hồ Tôn Hiến. Kỳ lạ là cùng thân phận thị nữ như Vương Thúy Kiều được Mao Khôn nhắc đến, nhưng Vương Lục Châu thì hầu như không tác phẩm nào đả động đến.

Những tác phẩm trên tựu trung có 3 điểm giống nhau: một là, xác thực Vương Thúy Kiều là danh kỹ nổi tiếng và là người đã khuyên Từ Hải quy thuận triều đình. Hai là triều đình không giữ lời hứa, ngôn hành bất nhất, tráo trở nuốt lời khiến cho "Từ Hải chết đứng". Ba là trước mặt dân nữ Vương Thúy Kiều, đại thần Hồ Tôn Hiến hiện hình quỷ quyệt, nhỏ nhen, thô lậu.

Cũng phức tạp như xuất thân và hành trạng, đoạn kết cuộc đời của nàng Kiều có nhiều thuyết khác nhau, nhưng đều là những câu chuyện đẹp.

Sau khi Từ Hải tử trận, Thúy Kiều bị bắt đưa về chỗ Hồ Tôn Hiến. Chính tại đây, sức tưởng tượng của văn nhân được phát huy hết mức.

Truyền thuyết phù hợp tâm trạng và được lòng nhiều người nhất là Thúy Kiều xin Hồ Tôn Hiến cho an táng Từ Hải, Tôn Hiến không cho; xin xuống tóc làm ni cô, vẫn không cho. Hồ Tôn Hiến tổ chức ăn mừng thắng trận lại ép Kiều ra đàn hát mua vui, trêu hoa ghẹo nguyệt, sau nghĩ xấu mặt vì "phương diện quốc gia" mới buộc Kiều làm vợ người khác.

Đối tượng bắt Kiều phải lấy thì các tác phẩm viết khác nhau, có chỗ nói là La Long Văn, có thuyết nói Từ Vị, hoặc tiểu tốt, hoặc tù trưởng…, nhưng chung một điểm: Kiều từ chối! Kiều nói với Hồ Tôn Hiến rằng: "Ngài giết người quy thuận, thiên lý để ở đâu?". Rồi vọng ra biển, khóc rằng: "Minh Sơn, ta đã phụ chàng!" Rồi viết một bài thơ tuyệt mệnh:

Kiến kỳ hải thượng độc xưng tôn/ Vị thiếp đầu thành bái kích môn/ Thập lý anh hồn như bất muội/ Dữ quân yên nguyệt bạn hoàng hôn. (Tạm dịch: Dựng cờ trên biển lập riêng bang/ Bởi nghe lời thiếp chịu quy hàng/ Mười dặm hồn thiêng như thấu hiểu/ Cùng nhau trăng khói chốn hoàng hôn). Sau đó, Kiều nhảy xuống sông tự trầm.

Ở góc độ triều đình nhìn nhận thì Kiều là người lập đại công trong việc tiêu diệt tập đoàn hải khấu Từ Hải, và nàng ý thức được chuyện đó. Như truyện "Vương Kiều Nhi" chép rằng: "Đốc phủ lệnh cho Kiều ca hát rồi dâng rượu. Chư quan tướng đều đứng dậy chúc mừng. Đốc phủ rượu say tâm động, cầm giáo múa rồi đùa cợt Kiều Nhi.

Đến đêm khuya, tiệc đại loạn. Sáng ra, đốc phủ hối hận chuyện hôm qua, vì Kiều Nhi có công lớn nên không nỡ giết, bèn đem ban cho tù trưởng Vĩnh Thuận. Kiều Nhi theo tù trưởng Vĩnh Thuận, đi thuyền đến Tiền Đường, lòng đau buồn mà than rằng: "Minh Sơn đối xử hậu với ta, ta vì việc nước mà hại chàng, giết một tù trưởng để lấy một tù trưởng khác, ta còn mặt mũi nào mà sống?", rồi nửa đêm nhảy xuống sông mà chết".

Tác giả Vương Thế Trinh bàn rằng: "Kiều Nhi là phận ca kỹ mà có thể phân minh thuận nghịch. Thân hãm ở nơi bất trắc, lại diệt giặc báo quốc, thật là hạng nữ liệt vậy. Thái sử công nói: "Họa sinh ra từ ái thiếp, lời ấy quả đúng với Từ Hải. Còn Kiều chết để báo Hải cũng giống như Lục Châu nhảy lầu báo ân Thạch Sùng ngày trước vậy".

Nhà Minh bị diệt, nhà Thanh lên thay, triều đại thay đổi ảnh hưởng không nhỏ đến địa hạt văn chương, Hình tượng Vương Thúy Kiều ngày càng được các văn nhân chuyển hóa đa dạng đa sắc để ký thác tâm tình. Như trong "Hổ phách chủy" của Diệp Trĩ Bùi, "Thu hổ khâu" của Vương Lung lấy quá trình luân lạc làm kỹ nữ của Kiều để phản ánh hiện thực xã hội như quan lại tham tàn vô pháp, đạo đức thị dân băng hoại. Tác giả cũng bày tỏ sự đồng tình và ký thác tư tưởng cứu thế ở nhân vật phản kháng Từ Hải.

Cái chết của Thúy Kiều là nguồn cảm hứng để các văn nhân gởi gắm nỗi niềm khi đất nước thay ngôi đổi chủ. Trong "Vương Thúy Kiều truyện" của học giả Dư Hoài tán thán về sự quyên sinh của Kiều rằng: "Than ôi! Thúy Kiều lấy cái chết để báo Từ Hải, quả là gieo Thái Sơn nhẹ như lông hồng… Con người coi trọng cái chết, kẻ kia là ca kỹ mà còn biết điều đó, vậy mà bọn sĩ phu lại không biết, tại sao thế? Đáng buồn thay!".

Nàng Kiều sống lại trong văn thơ

Đến thời kỳ Khang Hy (có thuyết nói Thuận Trị), Thanh Tâm Tài Nhân đã hoàn chỉnh bộ tiểu thuyết chương hồi "Kim Vân Kiều truyện", còn gọi là Song kỳ mộng hay Song hòa hoan, đầy đủ bi-hoan-ly-hợp. Tại đây, mối quan hệ của Thúy Kiều mở rộng ra: ở quan hệ gia đình thì thêm Thúy Vân, Vương Quan; quan hệ tình cảm thì thêm Kim Trọng, Sở Khanh; quan hệ xã hội thì thêm Hoạn Thư, Giác Duyên…

Khác với những tác phẩm trước thường kết thúc ở cái chết của Thúy Kiều, trong "Kim Vân Kiều truyện" cho Kiều sống lại nhờ sư cô Giác Duyên cứu để rồi sau đó tái hồi Kim Trọng, gia đình đoàn viên với một kết thúc có hậu.

Theo lời bàn của Kim Thánh Thán thì chủ đề của "Kim Vân Kiều truyện" là nói về "tình" và "khổ", "Chữ tình là một đại kinh, tức sợi dây lớn chạy dọc cả một thiên. Chữ khổ là một đại vĩ, tức sợi dây lớn chạy ngang cả một thiên. Nhưng tình phải chờ có cảnh mới sinh, khổ phải đợi có cơ hội ngộ mới nảy. Vậy nên khi mở cuốn truyện, người ta không thể nhìn qua một lượt mà thấy rõ được".

Hàn Phong
.
.