Nguyễn Hữu Hanh – Cố vấn kinh tế cho hai đời tổng thống Việt Nam Cộng hòa (kỳ 3)

Chủ Nhật, 22/11/2015, 22:40
Xã hội miền Nam Việt Nam từ năm 1963 đến 1965 trải qua những cơn khủng hoảng chính trị do những cuộc đảo chính diễn ra liên miên, ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế tài chính. Với cương vị Cố vấn kinh tế tài chính cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, Nguyễn Hữu Hanh đã sắp xếp, tổ chức lại các hoạt động kinh tế.

Năm 1966, ông tiến hành một cuộc cải cách tiền tệ làm chấn động dư luận Sài Gòn. Các tờ báo đã in những tít lớn và giật gân để chỉ trích kịch liệt. Họ tặng cho Nguyễn Hữu Hanh danh hiệu "Vua phá giá" và ông là "kẻ chủ mưu" đứng sau cuộc cải cách.

KỲ 3: CUỘC CẢI CÁCH KINH TẾ CHO CHÍNH QUYỀN NGUYỄN VĂN THIỆU

"Vua phá giá" năm 1966

Sau khi Ngô Đình Diệm bị lật đổ và bị giết vào tháng 11/1963, chính trường Sài Gòn lâm vào cảnh rối loạn. Những cuộc đấu đá, lật đổ giữa các phe nhóm quân đội cũng như các cuộc đụng độ tôn giáo giữa phật tử và tín đồ Thiên Chúa giáo đe dọa cục diện chính trị miền Nam Việt Nam, thậm chí nhiều người đã tiên đoán một cuộc sụp đổ toàn diện của miền Nam sẽ xảy ra vào năm 1965. Lúc này, Nguyễn Hữu Hanh đang là Chánh sự vụ của Ngân hàng Thế giới (World Bank). Ông được giao phụ trách hệ thống ngân hàng phát triển ở Bắc Phi và các quốc gia nói tiếng Pháp với mức lương 22.000 đôla mỗi năm - mức lương cao ngất ngưởng thời bấy giờ.

Nguyễn Hữu Hanh tại Hội nghị Thống đốc Ngân hàng Trung ương các nước Đông Nam Á, Bangkok, Thái Lan năm 1967.

Tháng 9/1965, tướng Nguyễn Cao Kỳ, người vừa được Hội đồng Tướng lãnh chỉ định làm Thủ tướng đã sai Vũ Văn Thái, Đại sứ VNCH ở Washington tới thuyết phục Nguyễn Hữu Hanh về nước giúp cho chính phủ mới thành lập. Tổng thống Mỹ Johnson chỉ thị cho Bộ Ngoại giao và những người phụ tá tiếp xúc Nguyễn Hữu Hanh và thuyết phục ông trở về Sài Gòn. Nguyễn Hữu Hanh trả lời sẽ trở về nếu cả Hoa Kỳ và VNCH chấp nhận sự nghiêm ngặt và những phương pháp điều hành cứng rắn của ông.

Đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ Peter Ferguson và những phụ tá Nhà Trắng bảo đảm với Nguyễn Hữu Hanh rằng ông sẽ được hoàn toàn tự do làm việc, thậm chí còn được hỗ trợ toàn diện từ Nhà Trắng. Tướng Nguyễn Cao Kỳ cũng hứa là Nguyễn Hữu Hanh sẽ được toàn quyền hành động và Chính phủ VNCH sẽ hỗ trợ tối đa. Đứng trước một tương lai sáng sủa như vậy nhưng Nguyễn Hữu Hanh vẫn thấy do dự bởi ông có cảm giác mình không đủ sự kính trọng cần thiết để làm việc dưới quyền của tướng Kỳ? Hơn nữa tình hình Sài Gòn lúc này đang căng thẳng, trở về trong thời điểm như thế rất phiêu lưu và nguy hiểm.

Tuy nhiên đến tháng 11/1965, Nguyễn Hữu Hanh vẫn quyết định về nước nhận chức Thống đốc Ngân hàng Quốc gia VNCH kiêm Cố vấn kinh tế cho chính quyền. Ông phải đối mặt với một nền kinh tế tài chính đang bị lọt vào giữa vòng tham nhũng, đầu cơ, chợ đen, cùng những bất an xã hội. Trước cục diện như vậy, đầu tháng 6-1966, Nguyễn Hữu Hanh quyết định thực hiện một cuộc cải cách tiền tệ. Ông làm việc với Quỹ Tiền tệ Quốc tế để tranh thủ sự đồng tình và hỗ trợ.

Sau đó, ông tham khảo Cơ quan Viện trợ Hoa Kỳ để xin thêm viện trợ cho dự án và cấp thêm viện trợ PL480 (chương trình viện trợ hàng năm của Hoa Kỳ) để có một khối lượng lớn cung cấp cho thị trường các mặt hàng chủ yếu như gạo, bột mì, đường, sữa… Ông nói chuyện với Nhà Trắng để có một sự chấp thuận đặc biệt, cho phép bán vàng cho dân chúng vào thời gian hạ giá đồng tiền để kiềm bớt giá vàng, tạo một điều kiện tâm lý thích hợp và ổn định tỷ giá hối đoái.

Ông yêu cầu Quỹ Tiền tệ Quốc tế bật đèn xanh cho việc mua bán vàng, hỗ trợ hoàn toàn về phương diện kỹ thuật cho việc chuẩn bị cải cách kinh tế. Bản thân ông và 4 người phụ tá thân cận cùng 3 thư ký rất tin cẩn làm việc đêm ngày cho chương trình cải cách. Tất cả đều làm việc căng thẳng nhưng rất âm thầm, bí mật.

Vào một ngày thứ bảy trong tháng 6/1966, Nguyễn Hữu Hanh trình toàn bộ kế hoạch lên Nguyễn Cao Kỳ và Bộ trưởng Kinh tế Âu Trường Thanh để cùng ký duyệt. Và cuộc cải cách tiền tệ được thông báo vào sáng ngày hôm sau, ngày Chủ nhật, khi các ngân hàng và các tổ chức kinh tế tài chính đã đóng cửa. Người dân cũng như giới tài chính và kinh doanh hoàn toàn bị bất ngờ và những hậu quả tiêu cực ngắn hạn được giới hạn ở mức tối thiểu. Đồng thời, Nguyễn Hữu Hanh cũng cho phép các ngân hàng thương mại và các cửa hiệu vàng bạc mua vàng từ Ngân hàng Quốc gia và bán cho người dân. Đây quả là một sự ngạc nhiên rất lớn cho tất cả mọi người bởi vì vàng là mặt hàng được đánh giá cao nhất và được mọi người chuộng nhất vào lúc đó. Các tin tức về việc bán vàng cho người dân đã có một ảnh hưởng rất lớn về mặt tâm lý người dân và đã góp phần làm giảm đáng kể những hiệu quả không tốt của việc hạ giá đồng tiền đối với dư luận.

Việc cải cách tiền tệ này đã gây ra một làn sóng ồn ào trong dư luận và các tờ báo đã in những tít lớn và giật gân để chỉ trích Chính phủ VNCH kịch liệt. Họ tặng cho Nguyễn Hữu Hanh danh hiệu "Vua phá giá" và ông là "kẻ chủ mưu" đứng sau cuộc cải cách. Nguyễn Cao Kỳ và Bộ trưởng Kinh tế Âu Trường Thanh đứng ở “hậu trường” để Nguyễn Hữu Hanh gánh tất cả mọi lời chỉ trích. Thế nhưng Quỹ Tiền tệ Quốc tế lại khen ngợi không tiếc lời về sự thành công của chiến dịch và lấy nó dẫn chứng như là một trong những chiến dịch tài chính thành công nhất từ trước đến thời điểm đó. Chính phủ Mỹ cũng ca ngợi sự thành công của chương trình cải cách và khen ngợi sự khôn khéo và can đảm của Nguyễn Hữu Hanh.

Thương thuyết với Nhà Trắng

Sau vụ cải cách tiền tệ năm 1966, Nguyễn Hữu Hanh bắt tay vào việc tái tổ chức lại Ngân hàng Quốc gia lần thứ hai (lần đầu ông thực hiện dưới thời Ngô Đình Diệm), đặc biệt là nâng cao vai trò trong việc lập chính sách kinh tế tài chính cho chính phủ VNCH. Ông luôn được Nguyễn Cao Kỳ mời tham dự các buổi họp nội các bàn về các vấn đề kinh tế tài chính và tham khảo ông các chính sách, phương án giải quyết những vấn đề khó khăn, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến Chính phủ Mỹ.

Nguyễn Hữu Hanh (thứ hai từ trái qua) trong phái đoàn làm việc với Tổng thống Johnson năm 1966 tại Washington D.C..

Trước lúc Nguyễn Hữu Hanh chấp nhận lời đề nghị về Sài Gòn làm việc cho chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, Tổng thống Mỹ Johnson chỉ thị đại diện Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao thông báo cho Nguyễn Hữu Hanh biết là Chính phủ Hoa Kỳ sẽ giúp Nguyễn Hữu Hanh đầy đủ phương tiện để làm việc, mở rộng thêm chương trình viện trợ cho VNCH để giữ thế quân bình trên mặt tiền tệ, tiếp tục phát triển kinh tế trong tương lai.

Tuy nhiên đến năm 1967 Quốc hội Mỹ muốn hạ khoản viện trợ xuống còn 250 triệu đôla thay vì là 300 triệu đôla như bình thường, với lý do là chương trình viện trợ cho VNCH vào thời điểm đó đã quá lớn rồi. Chính quyền Mỹ và Nhà Trắng làm áp lực rất mạnh đối với VNCH nhằm chấp nhận những điều khoản do Mỹ quy định. Chính phủ Nguyễn Văn Thiệu tỏ ra nhượng bộ nhưng Nguyễn Hữu Hanh với tư cách là Cố vấn kinh tế tài chính và Thống đốc Ngân hàng Quốc gia của VNCH đã không đồng ý. Ông nêu rõ cho Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ biết chính phủ cần phải có ít nhất là 300 triệu đôla mỗi năm mới có thể giữ cho VNCH được một khoảng đệm trong số dự trữ ngoại tệ và để chính phủ có thể có một chính sách độc lập khi có sự khác biệt với quan điểm của Mỹ. Vì những lý do chính trị, Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ đều dễ dàng nhượng bộ, nhưng Nguyễn Hữu Hanh nhất định giữ vững quan điểm và từ chối điều chỉnh chính sách của Ngân hàng Quốc gia để hạ xuống số dự trữ như Chính phủ Hoa Kỳ yêu cầu. 

Những cuộc thương lượng giữa Nguyễn Hữu Hanh và Robert Komer - Phó đại sứ Mỹ tại Sài Gòn không đi đến một kết quả nào, vì cả hai đều không chịu nhượng bộ. Hai người quyết định sang Washington thảo luận với Nhà Trắng và tiếp kiến Tổng thống Lyndon Johnson. Tại Washington, Nguyễn Hữu Hanh vẫn cương quyết giữ quan điểm của mình. Ông cũng đòi chương trình PL480, vốn là một phần của toàn bộ chương trình viện trợ, phải được hoàn toàn dành riêng cho Chính phủ VNCH sử dụng vào việc phát triển kinh tế thay vì để Chính phủ Mỹ dùng cho các mục đích quân sự hay chính trị. Hai điều này cùng với một số điều khác ít phức tạp hơn đã là đề tài của nhiều cuộc tranh luận giữa Robert Komer và Nguyễn Hữu Hanh tại Nhà Trắng dưới sự chứng kiến của Lyndon Johnson. Nhưng sự việc vẫn chưa ngã ngũ.

Một tuần sau, Nguyễn Hữu Hanh trở lại Sài Gòn và nhận được một công hàm của Bùi Diễm, Đại sứ VNCH tại Washington, chuyển một văn kiện do Robert Komer gởi, đề cập những điểm đã thảo luận tại Nhà Trắng. Lá thư của Bùi Diễm ủng hộ quan điểm của Robert Komer và bày tỏ sự bất mãn về quan điểm cứng rắn của Nguyễn Hữu Hanh. Bùi Diễm cũng gởi một công hàm như vậy tới Nguyễn Cao Kỳ, đổ trách nhiệm cuộc thương thuyết bị bế tắc cho sự cố chấp của Nguyễn Hữu Hanh. Tuy nhiên, Nguyễn Cao Kỳ đã giao phó hoàn toàn vấn đề cho Nguyễn Hữu Hanh, ông ta chỉ can thiệp khi nào ông ta thấy cần phải nhượng bộ Hoa Kỳ.

Nguyễn Hữu Hanh gởi lại cho Robert Komer một bức thư cũng mạnh mẽ không kém, thông qua Nhà Trắng và Bộ Ngoại giao VNCH. Trong một lá thư khác gởi cho Bùi Diễm, ông xác định lại quan điểm của mình và lấy làm tiếc cho quan điểm mềm yếu của Bùi Diễm và việc ông ta đứng về phía chính quyền Mỹ mà không bảo vệ những chính sách có lợi cho VNCH. Mọi việc đang căng thẳng, thì thật bất ngờ, Nguyễn Cao Kỳ vì ngại mất lòng Chính phủ Hoa Kỳ nên đã đồng ý ký thỏa ước với Phó đại sứ Robert Komer khi ông này trở lại Sài Gòn.

Một tuần sau, dưới sự cho phép của Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Hữu Hanh bay qua Washington để giải quyết vấn đề bằng một đường lối mềm mỏng hơn. Ông ký một thỏa ước kinh tế tài chính trọn gói, trong đó VNCH được cấp thêm một khoản viện trợ để lập Quỹ Tái thiết là 50 triệu đôla. Theo ông, đó là một nước cờ kỹ thuật để bù lại mức viện trợ 250 triệu đôla mà Nguyễn Cao Kỳ đã chấp nhận ký trước đó. Như vậy mức dự trữ ngoại tệ của VNCH vẫn được nâng lên một cách gián tiếp là 300 triệu đô la.

Sự bất mãn manh nha

Nguyễn Cao Kỳ luôn miệng tuyên bố rằng chính quyền của ông ta là một chính quyền trung thực, một chính quyền của người nghèo và ông ta sẽ nhổ sạch tận gốc mọi tham nhũng trong chính phủ và trong quân đội (?). Thế nhưng thực tế thì nạn buôn lậu, tham nhũng tràn lan và chuyện mua bán ma túy luôn là vấn đề cực kỳ nhức nhối, trở thành mối quan tâm đặc biệt của Hoa Kỳ ở giai đoạn này.

Một lần, Nguyễn Hữu Hanh được CID (Cơ quan Điều tra hình sự, một bộ phận của CIA) mật báo là có một chiếc xe tải chở đầy thuốc phiện đã bị nổ lốp và đang nằm ở một con đường trong thành phố. Nguyễn Hữu Hanh gọi tướng Nguyễn Ngọc Loan lúc đó đang là Chỉ huy trưởng Cảnh sát đề nghị điều tra ngay lập tức và cho bắt ngay tội phạm nếu cần. Trong lúc đang phấn khởi, Nguyễn Hữu Hanh quên rằng những hành động như vậy có thể làm ông mất mạng.

Chiếc xe tải chở một số lượng lớn thuốc phiện được Nguyễn Ngọc Loan đưa về Bộ Tư lệnh Cảnh sát. Nguyễn Hữu Hanh phản đối và yêu cầu chiếc xe cùng số thuốc phiện phải được đưa về tòa án để làm bằng chứng. Nhưng khi chiếc xe được chuyển tới tòa án thì phần lớn ma túy trên đó đã biến mất. Nguyễn Hữu Hanh đã không bao giờ biết được điều gì đã xảy ra? Nguyễn Hữu Hanh không có đủ bằng chứng để biết được ai đứng đằng sau vụ này, nhưng trong lòng ông đã bắt đầu manh nha bất mãn với Nguyễn Cao Kỳ - người trước đây ông đã từng nghĩ mình không đủ sự kính trọng cần thiết để cống hiến.

(Còn tiếp)

Duy Tường
.
.