Dấu chân Mossad trên đất Mỹ

Thứ Ba, 03/06/2025, 10:58

Về mặt công khai, người Israel luôn khẳng định “chúng tôi không do thám Hoa Kỳ”. Tuy vậy suốt nhiều thập kỷ qua, một loạt tài liệu được giải mật, các vụ án gián điệp và lời làm chứng của những người trong cuộc đã kể một câu chuyện khác hẳn: một chiến dịch tình báo âm thầm, bí mật đã diễn ra từ người Israel trên đất Mỹ, còn các cơ quan an ninh Mỹ bị mắc kẹt trong gọng kìm chính trị bất kỳ khi nào họ chống trả lại.

Vòi bạch tuộc của Mossad trong vòng tròn an ninh Washington

Trong thế giới gián điệp, dấu chân của Mossad trên đất Mỹ là cái gì đó rất thực và từng khiến Washington gióng lên hồi chuông báo động. Năm 1997, những người nghe lén Mỹ đã chặn một cuộc gọi giữa một quan chức tình báo Israel ở Washington với cấp trên của anh ta tại Tel Aviv. Điệp viên Israel đó khẩn cấp hỏi liệu có ai đó có bí danh “Mega” giúp lấy một tài liệu chính phủ Mỹ nhạy cảm hay không: một lá thư từ Ngoại trưởng Mỹ gửi tới ông Yasser Arafat. Liền đó là lời cảnh báo từ phía Tel Aviv: “Trong trường hợp này chúng ta không dùng Mega”.

Đối với các chuyên gia phản gián thì cuộc nói chuyện đó chắc chắn rằng “Mega” là một điệp viên Israel nằm sâu bên trong chính phủ Hoa Kỳ và có thể tiếp cận mọi bí mật ngoại giao. FBI liền phát động săn lùng “Mega” bởi e sợ rằng Israel đã xâm nhập vào những cấp cao nhất của Washington. Dù phía Israel thẳng thừng phủ nhận và không tìm thấy “Mega” song vụ việc đã củng cố thêm sự thật đáng sợ rằng Mossad hoặc các chi nhánh của nó đã khoét sâu vào những vòng tròn quyền lực của Mỹ.

Dấu chân Mossad trên đất Mỹ  -0
Cựu phân tích tình báo của Hải quân Mỹ, Jonathan Pollard, người đã thay mặt cho Israel do thám Mỹ.

Đầu năm 2001, các văn phòng của Cơ quan phòng chống ma túy Mỹ (DEA) trên khắp đất nước bắt đầu báo cáo một mô hình kỳ lạ: các công dân trẻ người Israel mà thường là sinh viên mỹ thuật đã xuất hiện tại nhà và nơi làm việc của các nhân viên DEA mà không báo trước nhằm bán những bức tranh rẻ tiền. Một bản ghi nhớ dài 61 trang bị rò rỉ của DEA đã mô tả 125 sinh viên mỹ thuật đến các cơ sở và nhà riêng của nhân viên DEA tại ít nhất 6 thành phố khác nhau - sự lạ khiến FBI phát hành cảnh báo tới các cơ quan liên bang khắp đất nước.

Báo cáo nội bộ của DEA kết luận rằng những kẻ bán tranh “có thể là một dạng thu thập tình báo” hoạt động dưới vỏ bọc là những bức tranh sơn dầu. Nhiều sinh viên trong số này sau đó đã bị bắt và trục xuất vì vi phạm thị thực. Nhiều cựu quan chức phản gián tin rằng Mossad đang lập bản đồ những địa điểm quân sự và thực thi pháp luật Mỹ, thăm dò những điểm yếu trong an ninh Hoa Kỳ.

Tháng 3/2001, Văn phòng điều hành phản gián quốc gia Mỹ (ONCE) xác định “các sinh viên bán tranh Israel” đã cố gắng đột nhập những tòa nhà liên bang và thậm chí tư dinh hay nhà ở các quan chức liên bang cấp cao. Năm 2019, một tiết lộ gây sốc từ cuộc điều tra nhắm vào giám sát điện thoại quanh Washington và các nhà phân tích kết luận rằng Israel có khả năng đã cấy thiết bị gián điệp gần Nhà Trắng. Những công cụ giám sát nhỏ xíu này (được gọi là StingRays”) đã chặn cuộc gọi và những văn bản tin nhắn. Chúng được tìm thấy rải rác quanh Nhà Trắng cùng những địa điểm nhạy cảm khác. FBI khẳng định những thiết bị do thám này có “độ tin cậy cao” và cùng nhắm vào Tổng thống Donald Trump.

Những vụ bê bối khét tiếng

Vụ việc gây tổn hại nhiều nhất cho an ninh Mỹ là Jonathan Pollard - một cựu phân tích tình báo của Hải quân Mỹ vào năm 1985 đã làm việc cho Mossad. Trong suốt 18 tháng ròng, Pollard đã lấy cắp một lượng tình báo khổng lồ từ trung tâm chống khủng bố của Hải quân Mỹ. Theo một đánh giá thiệt hại của CIA thì Pollard đã chuyển giao hơn 800 tài liệu tuyệt mật và khoảng 1.500 bản tóm tắt tình báo về Trung Đông gồm cả những báo cáo tình báo tín hiệu rất nhạy cảm.

Cấp trên của Pollard tại đơn vị gián điệp LAKAM (một nhánh tình báo khoa học của Israel) đã tập trung cao độ về quân đội các nước Arab cùng những đợt chuyển giao vũ khí của Liên Xô: giao cho Pollard thu thập chi tiết các dữ liệu Mỹ về phòng không của Syria, tên lửa Ai Cập và thông tin liên lạc của Tổ chức giải phóng Palestine (PLO). Báo cáo giải mật của CIA cho thấy cấp trên của Pollard ở Israel rõ ràng không mấy quan tâm đến các hoạt động quân sự, khả năng và kế hoạch Mỹ.

Nói cách khác, Israel chỉ đạo Pollard đánh cắp những bí mật tình báo Mỹ liên quan đến các đối thủ của Israel ở Trung Đông. Sau khi xin tị nạn không thành công, Pollard đã bị FBI bắt giữ vào tháng 11/1985. Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi đó là ông Caspar Weinberger đã chỉ trích sự phản bội của Pollard. Bản tuyên thệ được phân loại của Weinberger được phê chuẩn bởi những người đứng đầu CIA, NSA, DIA và Tình báo Hải quân Mỹ (NI). Các quan chức tình báo Mỹ tin rằng một số bí mật Mỹ mà Pollard lấy được (như các phương thức đánh chặn tín hiệu) có thể rơi vào tay Moscow hoặc những người khác, là những nguồn gây nguy hiểm.

Cuối cùng Pollard nhận án chung thân. Israel đã chính thức xin lỗi và hứa không tái phạm nữa. Một cuộc điều tra nội bộ của Israel đã đổ hết tội lên các cấp trên của Pollard vì đã “làm mà không xin phép trước”, còn đơn vị LAKAM đã bị giải thể. Song cũng kể từ đó, tình báo Mỹ hạn chế chia sẻ thông tin nhạy cảm cho Israel và sự bất tín nhiệm vẫn tồn tại suốt nhiều năm.

Năm 2005, FBI đã phá vỡ cái gọi là “vụ bê bối gián điệp AIPAC”. Vụ việc tập trung vào Larry Franklin, một chuyên gia về Iran của Lầu Năm Góc, cùng 2 người vận động hành lang kỳ cựu khác tại Ủy ban công vụ Mỹ - Israel (AIPAC) là Steven Rosen và Keith Weissman. Franklin bị bắt quả tang đang chuyển các tài liệu nhạy cảm về chính sách Mỹ về Iran và Iraq cho Rosen và  Weissman - 2 người này sau đó lại chuyển chúng cho một liên lạc viên kiêm các nhà báo tại đại sứ quán Israel. Bộ ba bị truy tố theo luật gián điệp. AIPAC đã nhanh chóng sa thải Rosen và Weissman nhằn ngăn chặn hậu quả.

Cuối cùng Franklin nhận tội, còn Bộ Tư pháp Mỹ dưới áp lực dữ dội đã hủy bỏ mọi cáo buộc đối với 2 cựu quan chức AIPAC trong năm 2009. Có một sự thật rõ ràng là tại một thời điểm FBI đã bắt quả tang bộ đôi Rosen và Weissman nhận tin nhắn của Franklin về một mối đe dọa sắp xảy ra mà họ đã tận tụy chuyển cho một nhà ngoại giao Israel. Bộ máy gây ảnh hưởng của AIPAC vẫn tồn tại mà không hề tổn hại.

Dấu chân Mossad trên đất Mỹ  -0
Văn phòng của tập đoàn NSO ở miền Nam Israel, đơn vị đứng sau phần mềm gián điệp Pegasus khét tiếng.

Pegasus và các chiến binh mạng của Israel

Ngày nay Israel là một cường quốc tình báo mạng toàn cầu và phần lớn năng lực đó bắt nguồn từ Đơn vị 8200 (tương đương NSA của Mỹ) và các hãng công nghệ có quan hệ với Mossad. Trong đó cái tên nặng ký nhất là NSO Group - công ty đặt trụ sở ở Tel Aviv đứng đằng sau phần mềm gián điệp Pegasus khét tiếng. Dù NSO mạnh miệng tuyên bố rằng phần mềm của họ chỉ dành cho các chính phủ để chống lại tội phạm và khủng bố. Nhưng qua các cuộc điều tra đã chỉ ra rằng Dự án Pegasus đã bị lạm dụng bởi các chế độ độc tài dùng để tấn công các nhà báo, các nhà hoạt động và thậm chí cả những quan chức nước ngoài.

Trong một trường hợp, Pegasus còn được tìm thấy trên điện thoại các nhà ngoại giao Mỹ ở Châu Phi. Tháng 11/2021, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã đưa NSO Group cùng Candiru (công ty phần mềm độc hại của Israel) vào danh sách đen vì hành động trái với chính sách đối ngoại và lợi ích an ninh quốc gia Mỹ.

Chính quyền ông Biden đã dán nhãn NSO nguy hiểm không kém các đối thủ mạng từ Trung Quốc hoặc Nga. Cũng cần biết rằng Pegasus được phát triển bởi các cựu đặc vụ tình báo Israel và nhanh chóng nổi tiếng như là “vũ khí mạng mạnh nhất thế giới” vì khả năng xâm nhập điện thoại mà không cần nhấp chuột. Một khi được cấy ghép, từ xa Pegasus có thể trích xuất mọi email, văn bản, ảnh và thậm chí kích hoạt cả camera và micro của điện thoại, biến thiết bị thành một “điệp viên bỏ túi”.

Báo cáo của tờ The New York Times cùng những báo khác cho thấy Israel đôi khi còn dùng Pegasus như một công cụ ngoại giao: một con bài mặc cả nhằm giành được sự ủng hộ hoặc ký kết thỏa thuận với những nước khác để họ tiếp cận phần mềm gián điệp. Các chuyên gia lưu ý rằng bất kỳ công ty nào ở Israel muốn xuất khẩu các công cụ mạng đều phải chịu sự giám sát của Bộ Quốc phòng nước này, vô hình trung các công ty này như một phần mở rộng bộ máy tình báo của Israel: cung cấp cho các chính phủ nước ngoài những khả năng mà có lợi cho Israel.

Việc đưa NSO vào danh sách đen (cùng với các công ty công nghệ Trung Quốc như Huawei) đã phát đi một tín hiệu rất rõ ràng: hoạt động gián điệp mạng của Israel (thậm chí thông qua các công ty tư nhân) đã đi quá giới hạn. Mặt khác, một loạt các công ty tình báo mạng được thành lập bởi các cựu điệp viên Israel đã thu hút sự cảnh giác của Mỹ. Candiru (cùng với NSO có tên trong Danh sách đen của Hoa Kỳ) bị cáo buộc đã bán các công cụ nhắm vào những người bất đồng chính kiến từ Châu Âu đến Trung Đông. Hoặc Black Cube “hay Mossad tư nhân” chuyên buôn bán tình báo con người.

Vài năm trước, các báo cáo nổi lên cho thấy có một nhóm Black Cube đã được những cộng sự của chính quyền Tổng thống Trump thuê để đào bới thông tin về những quan chức thời Tổng thống Obama tham gia vào thỏa thuận hạt nhân Iran, có lẽ là làm suy yếu uy tín của thỏa thuận này. Black Cube phủ nhận mọi hành vi sai trái.

Mạng lưới Sayanim giám sát người Do thái lưu vong

Một trong những tài sản hiệu quả (và ít được biết đến) nhất của Mossad là mạng lưới tình nguyện viên trên toàn cầu có tên gọi là Sayanim (trợ lý, hoặc cộng tác viên). Họ không ăn lương hay là gián điệp qua đào tạo mà là thành viên của các cộng đồng Do Thái và giúp đỡ những hoạt động của Mossad vì lòng trung thành với Israel. Sayanim có thể tìm thấy tại những thành thị lớn, họ là thương gia, sinh viên, bác sĩ, luật sư và cả các giáo sĩ. Sayanim hoạt động theo kiểu phân khúc, mỗi người đóng một vai nhỏ và thường không biết đến nhiệm vụ chung.

Ý tưởng về Sayanim lần đầu tiên được phơi bày công khai vào năm 1990 bởi Victor Ostrovsky (cựu sĩ quan Mossad) khi ông tuyên bố rằng hàng ngàn Sayanim đang hoạt động trên thế giới, được điều phối bởi các cán bộ Mossad. Ostrovsky viết rằng chỉ riêng ở London có tới 7.000 Sayanim sẵn sàng hỗ trợ tình báo Israel vào những thời điểm quan trọng. Tại Mỹ, Sayanim liên kết khá đa dạng, từ giám sát mật tới mua sắm vật tư.

Những hồ sơ do FBI giải mật từ thập niên 1980 đã nhắc tới việc các công dân Mỹ cung cấp hỗ trợ cho điệp viên Israel song không bị truy tố. Các quan chức phản gián Mỹ cảnh giác rằng bất kỳ nhóm Mossad nào hoạt động ở các tiểu bang Mỹ đều có sẵn sàng đội quân Sayanim tương trợ. Sự hiện diện của họ là một thế lực đáng gờm của Mossad. Hiện tượng Sayanim đã nhấn mạnh rõ ràng cách tình báo Israel đã tận dụng tối đa mối quan hệ dân tộc và cộng đồng trên toàn thế giới (gồm cả Mỹ) như một lợi thế chiến lược. Đó là một khả năng mà rất ít quốc gia có được ở quy mô lớn và nó làm phức tạp thách thức phản gián: FBI khó mà điều tra toàn bộ cộng đồng Do Thái, còn Mossad biết tỏng điều đó.

Đã từ lâu các cơ quan an ninh Mỹ coi hoạt động gián điệp của Israel là một bí mật công khai gây ức chế. Biên tập viên Jeff Stein của tờ Newsweek khẳng định: “Israel do thám Mỹ nhiều hơn bất kỳ đồng minh nào khác”. Còn một cựu giám đốc phản gián của CIA gay gắt tố hoạt động gián điệp của Israel “hung hăng nhất” trong số các đối tác của Mỹ. Vào cuối thập niên 1990 (sau lời  hứa của Israel chấm dứt không do thám Mỹ nữa sau vụ án Pollard), FBI thấy mình liên tục đối mặt với các nhà ngoại giao Israel về những vụ án gián điệp trên đất Mỹ.

Các quan chức an ninh Mỹ đã lập ra một loạt những mục tiêu mà gián điệp Israel nhắm tới. Theo các đánh giá của FBI và báo cáo của Văn phòng trách nhiệm giải trình của chính phủ Hoa Kỳ (GAO) thì những bí mật công nghiệp Quốc phòng và công nghệ được Lầu Năm Góc phân loại đã trở thành trọng tâm đặc biệt của điệp viên Israel. 

Trong suốt thập niên 1980, các viên chức FBI và Hải quân Mỹ đã bóc trần nhiều âm mưu mà các điệp viên Israel (hoặc những kẻ đồng lõa) đã cố gắng thu thập công nghệ quân sự Mỹ: các bản thiết kế của loại chiến cơ F-16, hay những thiết kế về các loại bom chùm, súng tăng tân tiến... Năm 1986, ngay trong thời Tổng thống Reagan đã bắt quả tang việc Israel vi phạm lệnh cấm xuất khẩu bom chùm.

Mỗi lần như vậy, bên trong FBI và CIA đã có sự ngầm hiểu: Israel sẵn sàng đánh cắp ngay cả những bí mật nhạy cảm nhất của Mỹ, còn những công cụ phản gián thông thường đã bị cản trở bởi chính trị. Một tài liệu tuyệt mật của NSA được Edward Snowden hé lộ vào năm 2013 đã tiết lộ rằng cộng đồng tình báo Mỹ xếp Israel vào nhóm những mối đe dọa gián điệp thù địch hàng đầu.

Văn Chương (Lược dịch)
.
.