Giải mật cuộc điện thoại chấm dứt số phận Osama Bin Laden

Thứ Hai, 07/03/2022, 13:38

Ngày 2 tháng 5 năm 2011, Tổng thống Barack Obama đã cho phép mở chiến dịch dẫn đến triệt hạ Osama bin Laden, một trong những đối tượng bị truy nã khét tiếng nhất lịch sử Mỹ. Tuyên bố của ông Obama có đoạn: “Tối nay, tôi long trọng báo cáo với nhân dân Mỹ và thế giới biết về chiến dịch nhằm tiêu diệt Osama bin Laden, thủ lĩnh Al-Qaeda, tên khủng bố phải chịu trách nhiệm cho việc hạ sát hàng ngàn người đàn ông, phụ nữ và trẻ em vô tội”.

Hoạt động giao thư phức tạp của Al-Qaeda

Kể từ năm 2001, CIA đã cố gắng hết sức theo dấu Osama bin Laden và họ dùng đủ các nguồn tình báo con người (HUMINT), tình báo hình ảnh (IMGINT) và cả tình báo tín hiệu (SIGNT). Ngoài ra, cơ quan này cũng để mắt tới vô số trang web nhằm tìm ra manh mối hoặc bằng chứng về nơi khả thi có Bin Laden nương náu.

Năm 2007, các điệp viên CIA có một ý tưởng mới về việc theo dấu Osama bin Laden: theo dõi những người đưa thư và quan sát cách họ di chuyển và hành xử. Họ muốn tìm hiểu cách nhân viên đưa thư chuyển thông tin giữa các lãnh tụ Al-Qaeda (AQ).

Họ nghĩ rằng nếu các điệp viên CIA có thể xâm nhập vào hệ thống giao thư báo thì một trong số họ có thể gặp trực tiếp Bin Laden. Hệ thống thư báo là một trong những hệ thống thông tin chủ yếu mà các lãnh tụ AQ tiếp cận thông tin; cũng như nó dùng để chuyển thư từ, dữ liệu giữa các thành viên AQ trên toàn thế giới.

Đội ngũ thư tín viên là những người đáng tin cậy, họ chuyển thông tin giữa các lãnh tụ AQ, lấy mật lệnh từ Bin Laden và giao chúng cho các lãnh tụ AQ khác. Ngoài ra họ chịu trách nhiệm chuyển thông tin đến bất kỳ nơi nào có chiến dịch AQ hoặc nhóm hành động. Mặt khác, họ cũng chuyển thông tin chứa các hướng dẫn cho chiến lược tương lai của AQ. 

Để trở thành nhân viên giao thư báo thì cần phải hội đủ một số yếu tố như ngoài giao tiếp tốt tiếng Arab, Pashtun hay Urdu thì còn phải biết thêm một ngoại ngữ khác; biết dùng tốt ĐTDĐ và thay đổi thẻ sim mỗi khi cần thực hiện cuộc gọi; biết cách đăng nhập thư điện tử bằng mật khẩu dùng chung và lưu tin nhắn vào hộp thư nháp mà không gửi hay nhận các thư khác. Chỉ có người đưa tin của Bin Laden thì mới biết tin nhắn nào trong hộp thư nháp là của trùm khủng bố.

Người chuyển phát thư sẽ đến vào ngày hôm sau để nhận thư từ người trong nhà mà không hay biết người đang sống trong đó là ai. Thường, những lá thư này sẽ đến tay Osama bin Laden. Rất khó theo dõi số mỗi lá thư vì chúng luôn đi trước một bước hoạt động thu thập tình báo. Mất khá lâu thời gian theo dõi, CIA mới phát hiện ra rằng mỗi nhân viên giao thư sẽ có số điện thoại riêng và họ dùng các số riêng để gọi.

Năm 2007, Cục tình báo Pakistan đã cung cấp cho CIA hàng trăm số di động của các thành viên AQ. Có 1 số thuộc về một nhân vật có tên là Abu Ahmed Al Kuwaiti. Lại quan sát họ của Abu Ahmed Al Kuwaiti có vẻ như y đến từ Kuwait, vì hầu hết các phần tử Thánh chiến dùng quốc gia của họ làm họ của mình. Tuy nhiên Al Kuwaiti lại không đến từ Kuwait mà đến từ Pakistan và tên gốc của hắn ta là Ibrahim Saeed Ahmed. Y là người Pashtun và mang quốc tịch Pakistan, cha mẹ sống ở Kuwait và hắn ta lớn lên ở đó với người em trai Abrar. Kể từ thời thơ ấu, Abu Ahmed Al Kuwaiti đã học nói thành thạo tiếng Pashtun và Arab khi được đưa tới Kuwait. 

4-2.jpg -0
Ảnh do Nhà Trắng cung cấp có Tổng thống Barack Obama và các thành viên an ninh quốc gia xem chiến dịch tiêu diệt Osama bin Laden trong Phòng tình huống. Ảnh nguồn: Getty.

Khai thác dấu vết Al-Qaeda

Ngày 15 tháng 12 năm 2001, lần đầu tiên CIA đề cập cái tên Al Kuwaiti khi Mohamed Al Qahtani bị bắt giữ. Việc này xảy ra khi gã đang cố gắng vượt biên từ Tora Bora nơi Bin Laden được nhìn thấy lần cuối cùng trong năm 2001.

Al Qahtani được giao cho người Mỹ quản thúc, tiếp đó y được chuyển tới Guantanamo. Al Qahtani nằm trong số 20 người mất tích từ sự kiện 11-9. Y được đào tạo bài bản bởi Khalid Sheikh Mohamed (viết tắt KSM), chỉ huy chiến dịch 11-9. Sau đó hắn ta tới Saudi Arabia để nhận hộ chiếu mới và bay sang California. Mohammed Atta (một trong những tên khủng bố vụ 11-9) đã đợi Al Qahtani trong bãi đỗ xe ở phi trường Orlando.

Nhiệm vụ của Al Qahtani là tham gia kiểm soát đám hành khách trên máy bay. Hắn ta đi chuyến một chiều và không biết nói tiếng Anh. Điều này khiến viên chức hải quan nghi ngờ mục đích thực sự của chuyến đi và từ chối cho Al Qahtani nhập cảnh vào Mỹ.

Trong suốt cuộc điều tra, Al Qahtani khai rằng hồi tháng 7 năm 2001, KSM đã giới thiệu y với Abu Ahmed Al Kuwaiti và người này đã dạy hắn ta cách giao tiếp mật trong AQ. Al Kuwaiti cũng huấn luyện Al Qahtani về hoạt động an ninh và đây là lần đầu tiên giới chức CIA lờ mờ biết rằng Al Kuwaiti đang đóng một vai trò nào đó trong AQ, và hắn ta đích xác là tâm phúc của KSM. KSM đã bị tóm vào ngày 1 tháng 3 năm 2003. KSM khai với điều tra viên rằng Osama bin Laden có lẽ đang ở tỉnh Kunar (Afghanistan) và lá thư cuối cùng mà y nhận được là chuyển phát nhanh. KSM cũng khai rằng Abu Ahmed Al Kuwaiti và một người tên là Amin Al Haq đã giúp bin Laden rời khỏi Tora Bora. KSM cho hay Al Kuwaiti đã giải nghệ từ năm 2003.

Nhà điều tra CIA kết luận rằng Al Kuwaiti là một tâm phúc của Bin Laden và có ngôi thứ cao trong AQ. Hồi tháng 8 năm 2010, một cuộc điện thoại bị đánh chặn bởi Cơ quan an ninh quốc gia Mỹ (NSA), cuộc gọi đó phát đi từ một thành phố ở Bắc Pakistan đến từ Abu Ahmed Al Kuwaiti cho một kẻ nào đó ở Kuwait, và người lạ này khăng khăng hỏi Al Kuwaiti đang làm gì? Al Kuwaiti báo rằng mình đã trở lại làm việc với cùng “một người”. NSA đã chuyển tin này ngay tức khắc cho CIA. Cuộc gọi chỉ kéo dài vài phút và người lạ đang hỏi về tiền. Ngoài ra cũng có tin báo cho người ở Kuwait rằng người ở Pakistan đã trở lại làm việc với cùng “người”. NSA và CIA theo dấu cuộc gọi và phát hiện ra số di động từ cuộc gọi của người tên là Abu Ahmed Al Kuwaiti. Họ theo dõi tay này và nơi y sống, đó là một phức hợp lớn ở Abbottabad, cách Islamabad khoảng 40 dặm về hướng Bắc, và chỉ cách Học viện Quân sự Pakistan 300m trong tỉnh Waziristan.

CIA thiết lập kế hoạch thu thập tình báo quanh phức hợp đáng ngờ. Họ cũng thực hiện trinh sát quanh ngôi nhà. Và có một con đường bụi mù dẫn đến tòa nhà. CIA dùng máy bay không người lái (drone) kết nối vệ tinh 24/7 nhằm giám sát bất kỳ ai đó sống bên trong tòa nhà. CIA ra lệnh cho một sĩ quan tình báo tín hiệu quan sát các cuộc gọi từ bên trong ngôi nhà, hoặc internet dùng bởi ngôi nhà đó. Và rồi CIA phát hiện ra Al Kuwaiti sống trong khu phức hợp cùng với vợ, các con, người em trai Abrar (người này cũng sống với vợ và các con).

Khu phức hợp rộng khoảng 3500m2 gồm 3 tầng lầu và có tường cao 5m cài dây kẽm gai kiên cố. Nhà có 2 cổng an ninh, mỗi cổng cách nhau 20m. Cổng thứ 2 là cổng chính dẫn vào nhà. Không có công nghệ an ninh tại khu nhà, không mạng hay ăng-ten tivi. Quanh ngôi nhà cũng không có công nghệ hiện đại, không có ĐTDĐ dùng trong nhà.

Al Kuwaiti lái xe cách nhà tới 160 dặm chỉ để gọi điện thoại. Khi muốn truy cập mạng thì y lại phải lái xe sang thành phố khác. Mỗi khi xong việc, y xóa sạch máy tính, rời quán café internet. Từ nguồn của IMGINT, CIA phát hiện có một người đi lại hàng ngày trong khu nhà và chưa từng rời nhà đi đâu. Al Kuwaiti dùng tên giả Arshad Khan ở Abbottabad, còn người em trai Abrar cũng dùng tên giả Tariq Khan.

Al Kuwaiti nhờ cậy người hàng xóm tên là Zain Baba, 84 tuổi và con trai ông này là Shamrez Khan làm công tác trực đêm cho ngôi nhà. Hai người này sau đó khai rằng họ chỉ nhìn thấy mỗi Al Kuwaiti, người em trai hoặc các con trong nhà. 2 tháng sau đó, 2 người trực đêm này được tình báo Pakistan bắt giữ và sau đó thả ra.

4-3.jpg -0
Trẻ em chơi bóng gậy trong khu phức hợp từng là nơi ẩn náu của bin Laden ở Bắc Abbottabad, ngày 2 tháng 11 năm 2021. Ảnh nguồn: AFP.

Bên trong khu trú ẩn Abbottabad

Abu Ahmed Al Kuwaiti mua mảnh đất đó vào năm 2004 với số tiền 50.000 USD và trả thành 4 đợt cho đến năm 2005. Y nói với chủ đất là mua nó cho người chú của mình. Al Kuwaiti thuê kiến trúc sư Junaid Younes thiết kế ngôi nhà và chính quyền địa phương cho phép xây nhà 2 tầng với 4 phòng ngủ/ tầng. Sau đó có thêm tầng 3 xây lụi và bị ngờ là nơi ẩn náu của Osama bin Laden. Al Kuwaiti sống biệt lập trong một tầng của khu nhà với vợ Maryam và các con.

Vợ của Al Kuwait cũng không biết người sống trong tòa nhà là Osama bin Laden. Suốt 6 năm, ngoại trừ phải dọn dẹp còn thì Maryam không được phép đến ngôi nhà lớn. Có lần bà nghe ai đó nói tiếng Arab, và phát hiện có người Arab sống trong nhà lớn, nhưng không nghĩ rằng đó là Bin Laden. Al Kuwaiti và người em trai nhận lương của Bin Laden với số tiền 12.000 Rub Pakistan (hơn 100 USD/ tháng). Vợ của Abrar là Rawalpindi phải bán số vàng trị giá 1500 USD để sống đến cuối tháng. 

Al Kuwaiti xuất thân từ một bộ tộc lớn ở Pakistan và gia đình hắn ta bần cùng. Họ làm việc ở Kuwait nơi Al Kuwaiti lớn hơn. Al Kuwaiti không thể sống trong khu nhà trị giá hàng trăm ngàn USD, các nhà phân tích CIA tin rằng Al Kuwaiti đang bao che cho ai đó trong phức hợp và người này rất có thể là Osama bin Laden. Trẻ con trong khu nhà không được đi học và chơi bời với trẻ hàng xóm. Những người sống bên trong khu nhà nuôi hàng trăm con gà để lấy trứng.

Có một người mà CIA gọi là Pacer, người này bị nghi là Osama bin Laden. Do không có hình ảnh chụp rõ ràng về Bin Laden nên CIA đã dùng loại drone gọi là Qandahar Monster để giám sát ngôi nhà liên tục. Và họ thấy người lạ (Pacer) đi bộ hàng ngày bên trong khu nhà.  CIA luôn cập nhật tin tức về phức hợp Abbottabad cho Tổng thống Obama. Các nhà phân tích CIA bắt đầu tin rằng Bin Laden đang sống trong khu nhà và họ quyết định sử dụng một nhà phân tích tình báo tư nhân và người này kết luận rằng có từ 30-40% Bin Laden sống ở Abbottabad.

Tổng thống Obama tin 50% cơ hội Bin Laden sống trong khu phức hợp. Niềm tin của Nhà Trắng dao động từ 30% đến 60%. Sau đó, Giám đốc CIA, Panetta, và nhà phân tích tình báo chính đã hội kiến Tổng thống Obama để đề ra những khuyến nghị mạnh mẽ về cách thức hành động ở Abbottabad.

Giới tình báo cho rằng Al Kuwaiti và Pacer sẽ không ở lâu trong khu nhà và người Mỹ cần phải hành động ngay lập tức. Ngày 14 tháng 3 năm 2011, Tổng thống Obama chủ trì cuộc họp với Hội đồng An ninh quốc gia (NSC) và các quan chức tình báo Mỹ đã trình cho ông 4 lựa chọn:

1. Đánh bom khu nhà và giết sạch mọi người. Nhưng việc này có thể ảnh hưởng tới hàng xóm và có thể giết hại nhiều thường dân vô tội khác. Mặt khác, việc đánh bom khu nhà cũng có thể bị mất luôn bằng chứng và thông tin quan trọng.

2. Dùng drone đánh bom nhắm vào Pacer khi người này đi dạo trong khu nhà. Nhưng rủi nếu bom không nổ thì Bin Laden sẽ thoát và tan tành luôn 10 năm công sức tình báo.

3. Dùng đặc nhiệm Mỹ sử dụng trực thăng tấn công khu nhà để giết mục tiêu, hoặc bắt sống mọi người trong nhà.

4. Hợp tác với lực lượng Pakistan để đồng tấn công khu nhà. Nhưng việc này có thể làm lộ thông tin và tạo điều kiện cho Bin Laden chạy thoát. 

Phó đô đốc Mc Raven đánh giá tính khả thi của phương án thứ 3, gọi là Chiến dịch Neptune Spear. Ngày 29 tháng 3 năm 2011, Tổng thống Obama nhận thấy có nhiều thành viên Hội đồng cố vấn quốc gia (NAC) ủng hộ Chiến dịch Neptune Spear. Trong cuộc họp tháng 4 năm 2011, tất cả các thành viên NSC đều nhất trí triển khai Chiến dịch Neptune Spear vì ít nguy hiểm nhất.

Nhóm hành động là Đội hải cẩu số 6 bắt đầu các mô hình huấn luyện ở Bắc Carolina và Nevada. Ngày 25 tháng 4 năm 2011, Tổng thống Obama chủ trì cuộc họp cuối cùng với NSC. Ông Obama bị thuyết phục tới 50% rằng Osama bin Laden đang sống trong khu phức hợp.

Tới ngày 29 tháng 4 năm 2011, Tổng thống  Obama chủ trì cuộc họp với NSC và tuyên bố khởi động Chiến dịch Neptune Spear. Chiến dịch này được phát động lúc tảng sáng ngày 1 tháng 5 năm 2011 giờ Pakistan, tức 3 giờ khuya giờ Washington.

Văn Chương (Tổng hợp)
.
.