Hoạt động hậu cần của OSS trong Thế chiến II

Thứ Hai, 28/08/2023, 16:58

Khả năng hậu cần của OSS trong Thế chiến II vẫn là một vấn đề còn bỏ ngỏ cho đến nay. Trung tá Fitzhugh Chandler là sĩ quan chỉ huy của OSS tại Khu vực H ở Anh - cơ sở cung cấp vũ khí và hậu cần cho lực lượng Kháng chiến Pháp cũng như Các nhóm hành động OSS (OGs), Tác chiến đặc biệt (SO), Biệt kích Jedburgh cùng các toán Tình báo mật (SI). Bài viết này kể về những gì đã được làm tại Khu vực H cũng như vật tư hậu cần được đưa tới phía sau phòng tuyến địch.

Công tác chuẩn bị hàng tiếp tế

Ngày 26/6/1942, OSS và cơ quan tương đương phía Anh là Cục chiến dịch đặc biệt (SOE) đồng nhất trí phân chia  thế giới thành các khu vực. SOE giữ lại Tây Âu và ra quyết định rằng OSS và SO sẽ hoạt động dưới sự giám sát chung của SOE nhưng vẫn duy trì tính độc lập. Đến ngày 14/1/1944, SO và SOE đã kết hợp trụ sở chính của họ nhằm tăng cường sự điều phối. Sự sắp xếp này đã tạo điều kiện thuận lợi trong việc trao đổi nhân sự giữa hai nước. Cần biết rằng người Anh đã tham chiến từ năm 1939 nhưng thiếu thốn hậu cần. Chi nhánh SO non trẻ phải xây dựng chuỗi cung ứng để hỗ trợ cho quân Đồng Minh giải phóng Châu Âu khi SOE không thể hỗ trợ các hoạt động của OSS. Bước đầu tiên là đưa máy bay có khả năng vận chuyển hàng tiếp tế vào Châu Âu. Ngày 5/5/1943, nhánh SO yêu cầu một phi đội oanh tạc cơ của Không lực Mỹ (USAAF) thả điệp viên và hàng tiếp tế vào Châu Âu do Đức Quốc xã (ĐQX) chiếm đóng.

5 tháng sau đó, sau khi xem xét áp lực từ giám đốc OSS, Thiếu tướng William Donovan, nhánh SO đã nhận một phi đội 16 máy bay và hứa hẹn sẽ có thêm một phi đội khác vào cuối năm đó. Ban đầu phi đội B-24 được thành lập bởi đại tá Clifford Heflin nhằm triển khai nhiệm vụ săn ngầm. Phi đội này được đặt lại cái tên mới là Nhóm oanh tạc số 801 (hoặc tên thường gọi là “Carpetbaggers” - tên mã nhiệm vụ là Chiến dịch CARPETBAGGER), 801 trở thành nhân tố USAAF chịu trách nhiệm thả hàng tiếp tế vào ban đêm cho quân kháng chiến và các nhóm hoạt động đặc biệt tại Châu Âu do ĐQX chiếm đóng. Nhiệm vụ đầu tiên của CARPETBAGGER được thực hiện bởi Không lực hoàng gia (RAF) Tempsford trong tháng 1/1944. Các phi hành đoàn 801 được phái tới RAF Tempsford để học hỏi chuyên môn của các phi đội bay SOE và được đào tạo bài bản cho các hoạt động tiếp tế bí mật. Tại đó chỉ trong một thời gian ngắn ở Alconbury, 801 đã chuyển căn cứ không quân đến Harrington.

Hoạt động hậu cần của OSS trong Thế chiến II -0
Trung tá Fitzhugh Chandler, sĩ quan chỉ huy của OSS tại Khu vực H ở Anh - cơ sở cung cấp vũ khí và hậu cần cho lực lượng Kháng chiến Pháp.

Tại Harrington, Carpetbaggers lớn mạnh thành 4 phi đội (16 máy bay/ phi đội) với 2.500 phi công. Ngày 13/8/1944, 801 được đổi tên thành Nhóm oanh tạc 492 và các phi đội của nó lần lượt được đổi tên là 36 sang 856, 406 sang 858, 850 sang 857, và 788 sang 859. Khi vấn đề không vận đã được giải quyết, OSS cần một căn cứ hậu cần ở Anh nơi có thể tích trữ và chuẩn bị các danh mục hàng hóa sang Châu Âu bị chiếm đóng. Một bản ghi nhớ đề ngày 6/7/1943 từ đại tá Charles Vanderblue, trưởng nhánh SO London của OSS, cho đến tổng hành dinh OSS ở Washington DC, đã định rõ những thứ cần phải cung cấp cho Khu vực H. Đầu tháng 8/1943, OSS Washington giao trọng trách cho SO London đáp ứng các yêu cầu hậu cần cho 100 điệp viên, 35 nhóm Jedburgh (mỗi nhóm có 3 sĩ quan) và 100.000 quân. Lường trước sẽ có hậu quả tổn thất nặng nề trong quá trình thả tiếp tế nên SO lập luận rằng họ nên tăng gấp đôi số lượng ước tính nhằm trang bị cho một lực lượng quy mô như thế.

Điều này đồng nghĩa là SO phải tích trữ 71.400 con dao, gần 104.000 khẩu súng tiểu liên, 24.000 khẩu súng carbine, 104.000 khẩu súng lục, 793.000 quả lựu đạn, hơn 704.200 kg các vật liệu nổ, gần 18 triệu viên đạn các loại, và 38.000 chiếc dù. Nhánh SO London đã nhanh chóng tìm ra địa điểm để tích trữ số hàng này và đóng gói chúng để vận chuyển bằng đường hàng không. Chuẩn tướng Anh, E. E. Mockler-Ferryman của SOE đã gợi ý rằng cơ sở SO nên đặt gần trạm đóng hàng (Trạm 61) ở St. Neots (Huntingdonshire,Cambridgeshire, Anh). Theo cách đó, 2 tổ chức có thể tiếp cận nguồn cung chung. Rời tổng hành dinh khu vực Hoạt động hàng không SO ở London, phần lớn nhân sự sẽ chuyển tới Holmewood, một điền trang từ thế kỷ 16 nằm gần làng Holme. Holmewood cách thủ đô London 80 dặm và cách Trạm 61 độ 20 dặm. Điền trang này dùng làm nhà ở cho các sĩ quan cũng như có các phòng tiêu khiển. Thi thoảng các điệp viên cũng trú ở đó trước khi bắt đầu nhiệm vụ của họ. Các chuồng ngựa và những ngôi nhà phụ của điền trang được dùng làm kho chứa hàng.

Khu vực H

Việc xây dựng các cơ sở OSS ở Anh (Khu vực H) đã được bắt đầu vào tháng 1/1944 và hoàn tất 2 tháng sau đó. Khu vực H trở thành cơ sở cung ứng lớn nhất của SO tại Nhà hát Châu Âu. Thời điểm đó, Khu vực H có thể chứa 18 sĩ quan và 326 quân nhân. Mặc dù điện nước lấy từ bên ngoài, nhưng hệ thống sưởi lại được lấy từ một nhà máy điện mới xây dựng. Các ngôi nhà bằng tấm kim loại ở đây dược dùng làm bệnh xá, các khu vực hành chính và bảo trì cũng như bể chứa động cơ. Những ngôi nhà biệt lập dùng để chứa đạn dược và thuốc nổ, (các thiết bị gây cháy nổ) được dựng cách xa trại chính. Khu vực đó có 4 túp lều Nissen và 5 căn nhà gạch. Mỗi túp lều được quây bằng tường gạch đề phòng cháy nổ bất ngờ. Một túp lều Nissen và 4 lều Romney được dùng để đóng hàng. Có một nhà kho bằng gạch mới xây được dùng để chứa đồ đã đóng gói. Khu vực H có thể chứa 500 tấn hàng. Căn cứ SOE tại St. Neots có thể xử lý thêm 300 tấn. An ninh được thắt chặt ở Khu vực H.

Xung quanh điền trang được quây hàng rào dây kẽm gai khá cao. Ban đêm, các đội chó canh phòng sẽ tuần tra xung quanh. Ba cổng đều có chòi canh để kiểm soát người ra vào. Việc điều phối giữa OSS và SOE là không đổi, các thủ tục đóng hàng cũng được kiểm tra chéo. Việc chuyển hàng tiếp tế sang Châu Âu bị chiếm đóng được bắt đầu bằng những thùng hàng được đóng gói đặc biệt. Những cái hộp nhựa hoặc ống kim loại được thiết kế theo 2 loại gồm hình chữ “H” và hình chữ “C”. Nhìn bề ngoài thì chúng giống hệt nhau, tuy nhiên thùng “H” có các ngăn bên trong, trong khi thùng “C”  không có. Khi rơi xuống đất, các thùng “H” có thể bung ra và tách thành 5 phần riêng rẽ, mỗi phần chứa 1 người. Các thùng “C” đựng súng trường hoặc súng máy. Sau khi lấy ra khỏi kho, các thùng rỗng sẽ được đánh số serie trước khi chuyển đến khu vực đóng gói. Trong các thùng được bện vật liệu chống sốc chẳng hạn như vải bố, và các thùng được đóng chặt lại.

Cũng có những kiện hàng được thiết kế riêng để chống sốc khi bung dù cũng như khi hạ cánh. Những thùng hàng có thể chứa bất kỳ hàng nào trong số 400 danh mục đồ tiếp tế của quân đội Mỹ, quân đội Anh, OSS hoặc SOE. Nguồn cung luôn trong thế sẵn sàng. Những kho dự trữ bao gồm các loại vũ khí của Anh, Mỹ với nhiều cỡ nòng khác nhau. Các sĩ quan tại Khu vực H cũng đánh giá loại súng mà sĩ quan OSS sử dụng để biết chính xác chúng dùng loại đạn gì. Thỉnh thoảng, nội dung của các kiện hàng hoặc thùng hàng được tinh chỉnh để phù hợp với những nhiệm vụ cụ thể theo đề nghị của Khu vực H. Cơ sở đóng hàng ở Khu vực H phải hoạt động cực kỳ linh hoạt nhằm đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ. Những người nhận hàng thả cần phải chắc chắn họ có đủ người để nhận hàng, chuyển và giấu ở nơi an toàn trước khi quân Đức đi tuần vào sáng ngày hôm sau. Điều này dẫn đến sự ra đời của một loạt tải trọng tiêu chuẩn, nó cũng cung cấp chính xác hơn về tổng trọng lượng hàng cho mỗi chuyến thả hàng.

Chẳng hạn như một trong những tải trọng tiêu chuẩn cho mỗi thùng “H” là 5 khẩu súng Sten 15 băng đạn, 1.500 viên đạn 9mm; 5 khẩu súng lục với 250 viên đạn; 52 quả lựu đạn và 18 kg vật liệu nổ. Trọng lượng thùng chứa là 127,5 kg. Đồ chứa của mỗi thùng được phân phối và đóng gói trong các ô, khoang nhằm làm cân bằng với tải trọng và tăng cơ hội tiếp đất dễ dàng. Điều này tương tự với loại thùng chứa “C”. Một thùng chứa “C” có thể để 2 khẩu súng hạng nhẹ Bren với 16 băng đạn cùng 2.000 viên đạn, nặng 137,4kg. Để xác minh các kỹ thuật đóng gói đã chuẩn chưa, nhân viên tại Khu vực H đã tiến hành các bài thử nghiệm thả hàng (bao gồm thả rơi tự do hàng hóa) nhằm tìm hiểu xem một khi rơi xuống đất thùng hàng có còn nguyên vẹn hay không.  Sau khi đóng hàng xong, các thùng chứa được chở bằng những đoàn xe đến máy bay đang đỗ sẵn tại các sân bay SOE hoặc USAAF. Sân bay chính của USAAF mà Khu vực H hỗ trợ là Harrington, nơi có bản doanh của Carpetbaggers (Nhóm oanh tạc số 801).

Hoạt động hậu cần của OSS trong Thế chiến II -0
Máy bay B-24 Liberator đã được sửa đổi của Nhóm oanh tạc 492/801 (tên gọi khác là “Carpetbaggers”) cất cánh từ căn cứ không quân Hoàng gia Anh ở Harrington năm 1944.

Hoạt động đặc biệt ở châu Âu 

Những toán Carpetbaggers đã đi tiên phong trong việc bay tầm thấp vào ban đêm trong các máy bay của USAAF. Tất cả nhiệm vụ được tiến hành vào thời kỳ trăng rằm, khi ánh trăng có thể hỗ trợ tầm nhìn của phi công. Các phi đội oanh tạc USAAF ở Châu Âu thường bám vào học thuyết ném bom chính xác vào ban ngày. Các phi công Carpetbaggers giữ yên dưới độ cao 609,6m đề phòng radar và lưới phòng không của Đức phát hiện cũng như tăng độ chính xác khi thả hàng. Một khi vượt qua mục tiêu, máy bay Carpetbaggers sẽ liên lạc với mặt đất bằng cách dùng một thiết bị được gọi là “điện thoại S” - một loại máy vô tuyến đất đối không tầm ngắn - nhằm cho phép đạt độ chính xác lớn hơn khi thả hàng. Nếu ban tiếp mặt đất không có “điện thoại S” thì họ sẽ liên lạc bằng đèn pin hoặc pháo hiệu. Các đợt thả hàng và nhân sự thường diễn ra ở độ cao từ 121,9m đến 182,8m và dưới 130 dặm/ giờ.

Tốc độ này gần bằng tốc độ ngưng của máy bay B-24, nhưng nó làm giảm độ sốc mở dù, giảm khả năng thiệt hại cho các vật chứa bên trong cùng thương vong cho các điệp viên. Tại những địa điểm khác, phi công sẽ thả truyền đơn để che giấu nhiệm vụ chính. Tháng 1/1944, USAAF bắt đầu thả hàng tiếp tế xuống Châu Âu. Những chuyến thả ban đầu này là phản ứng với nhu cầu ngày càng tăng ở Khu vực H. Các hoạt động thả hàng được tiến hành từ tháng 1 đến tháng 2/1944, chỉ có 28 trong số 76 nhiệm vụ là thành công. Đến tháng 3/1944, tỷ lệ thành công được cải thiện là 44/72. Trong suốt 3 tháng đầu năm 1944, 6 điệp viên, 799 thùng hàng và 265 kiện hàng (và 1 triệu viên đạn dùng cho vũ khí nhỏ) đã được thả, thiệt hại 3 máy bay. Tháng 7/1944, các phi công Carpetbaggers được giao nhiệm vụ rước nhân sự từ Châu Âu về lại. Vài chiếc C-47 được gắn vào Carpetbaggers, và xuyên suốt tháng 9/1944 đã đưa về 76 điệp viên cũng như trục xuất 213 điệp viên địch.

Lịch trình làm việc tại Khu vực H hết sức khắt khe. Để cung cấp 10.000 thùng hàng mỗi tháng theo yêu cầu trong tháng 7/1944, 2 ca làm việc 8 tiếng ngoài giờ, 7 ngày/ tuần. Nhân viên đóng gói được nghỉ 1 ngày trong tuần. Các đợt tăng ca đột biến theo định kỳ cũng được yêu cầu. Khu vực H đã đóng 15.323 thùng hàng và các kiện hàng cho mỗi tháng. Nhiều đợt tăng cao trong số này đã đáp ứng những đợt thả lớn của USAAF cho kháng chiến Pháp, hoặc đợt ngày 19/9/1944 các phi công đã thả 1.084 thùng hàng cho kháng chiến Ba Lan - họ bị quân Đức vây hãm ở Warsaw. Sau tháng 9/1944, tiến độ ở Khu vực H chậm dần. Pháp - quốc gia chính về những hoạt động tiếp tế không vận - đã không còn cần tái cung nữa. Từ đó Carpetbaggers đã chuyển đổi những chiếc B-24 của họ để chở nhiên liệu trực tiếp cho Trung tướng S. Patton của Tập đoàn quân số 3, vốn vượt quá khả năng hậu cần của họ. Các phi công Carpetbaggers đã chuyển giao 822.791 lít nhiên liệu/ tháng.

Cuối cuộc chiến ở Âu Châu, nhóm oanh tạc 801/Nhóm oanh tạc 492 đã thả 551 điệp viên và 4511 tấn hàng tiếp tế, tổn thất 223 phi công. Đến lúc đó, quy mô hoạt động của họ bao phủ Pháp, Bỉ, Hà Lan, Đức, Ý, Ba Lan và Na Uy. Tháng 11/1944, Khu vực H tái cung cấp đồ tiếp tế cho các lực lượng kháng chiến ở Đan Mạch và Na Uy. Các túi thư ngoại giao được đại diện chính phủ Na Uy lưu vong mang vào Thụy Điển. Sau khi cất giấu an toàn trong nhà kho của Công sứ Na Uy ở Stockholm, các túi thư được mở ra và tài liệu được tuồn vào Na Uy. Đến giữa tháng 12/1944, khoảng 6,5 tấn đồ tiếp tế đã được giấu ở Thụy Điển dùng cho Na Uy. Khu vực H đóng gói 10.000 thùng hàng / tháng dùng cho Na Uy và Đan Mạch; cũng như một phi đội Carpetbagger (Phi đội 856) được giữ lại khi chiến tranh chống Đức chấm dứt trong tháng 5/1945.

Nỗ lực hậu cần của OSS tại Khu vực H đã thành công ngoài sức tưởng tượng. Trong suốt năm 1944, khu vực này đã đóng gói 50.162 thùng hàng và được chở bởi các phi công RAF và USAAF. Trong 9 tháng đầu năm 1944, hơn 75.000 vũ khí nhỏ và 35.000 quả lựu đạn đã được gửi đi. Khu vực H đã cung cấp 96 tấn đồ tiếp tế cho Bỉ, 9 tấn cho Đan Mạch, 3,055 tấn cho Pháp, 119 tấn cho Ba Lan và 56 tấn cho Na Uy. Có một thực tế bị giấu kín đó là những điệp viên đứng sau phòng tuyến Đức đã trực tiếp làm nên hoạt động hậu cần của OSS ở Châu Âu.

Văn Chương (Tổng hợp)
.
.