NATO chuyển hướng sang tăng cường răn đe và phòng thủ tập thể
Tổng Thư ký Jens Stoltenberg đã công bố dự thảo Khái niệm Chiến lược quân sự mới của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) tại Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao NATO diễn ra tại Riga (Latvia) trong 2 ngày 30-11 và 1-12 vừa qua. Đây là cách thức NATO sẽ đối phó với một thế giới cạnh tranh và khó đoán hơn.
5 yếu tố trọng tâm
Hãng tin Reuters cho hay, các nhà lãnh đạo NATO dự kiến sẽ thông qua văn kiện này tại Hội nghị thượng đỉnh Madrid vào tháng 6-2022. Theo đó, có 5 yếu tố trọng tâm của Khái niệm chiến lược quân sự mới gồm: bảo vệ các giá trị chung; củng cố sức mạnh quân sự của NATO; củng cố xã hội; có tầm nhìn toàn cầu và xây dựng NATO như một liên kết thể chế giữa châu Âu và Bắc Mỹ.
Trong bài phát biểu tại hội nghị “NATO Talk 2021” do Viện Chính sách an ninh liên bang Đức (BAKS) tổ chức ở Berlin hôm 19-11, Tổng Thư ký NATO Jens Stoltenberg cũng từng nhắc rằng, châu Âu và Bắc Mỹ cùng thuộc NATO. Việc thiết lập một “mối liên kết bền chặt” giữa hai bên có ý nghĩa đặc biệt, khi cả hai bờ Đại Tây Dương đều đang phải “đối mặt với nhiều thách thức an ninh mới và những vấn đề khác nhau cùng một lúc”. Điều đó đòi hỏi NATO, sau hơn 70 năm tồn tại và phát triển, phải tích cực thay đổi để có thể thích nghi với tình hình mới. Ông Jens Stoltenberg cũng một lần nữa thừa nhận rằng, khi nói đến những thách thức mà NATO đang đối mặt, Nga thường được đề cập đến đầu tiên bởi nước này có tiềm lực quân sự khổng lồ, luôn là “đối thủ đáng kể nhất” của phương Tây, mà liên minh quân sự NATO là đại diện. Hơn nữa, quan hệ NATO-Nga đang trong giai đoạn cực kỳ căng thẳng. Còn Trung Quốc thì được coi là một thách thức lớn khác của NATO vì “những tham vọng và hành vi quyết đoán đặt ra những thách thức mang tính hệ thống đối với trật tự quốc tế dựa trên luật lệ”. Đặc biệt, NATO quan ngại về những chính sách của Trung Quốc như gia tăng đầu tư vào các công nghệ vũ khí mới, mở rộng hợp tác kinh tế và quân sự ở châu Phi, Bắc Cực và tăng cường hoạt động trong không gian mạng. Và mặc dù “không coi Trung Quốc là đối thủ,” nhưng NATO cần tính đến các hậu quả của sự trỗi dậy của Trung Quốc đối với an ninh của khối.
Bình luận thêm về vấn đề này, hãng CNN cho hay, khái niệm chiến lược quân sự mới dựa trên Khái niệm Chiến lược quân sự năm 2010 của liên minh nhưng chương trình nghị sự được bổ sung thêm các nhiệm vụ tương đối mới gồm: bảo vệ chống lại các cuộc tấn công mạng, chiến tranh hỗn hợp, thách thức từ Trung Quốc, chủ nghĩa khủng bố và sự nóng lên toàn cầu thực sự cần phải là một phần trong sứ mệnh mở rộng của NATO. Phòng thủ tập thể truyền thống vẫn là ưu tiên hàng đầu và điều đó cần được phản ánh trong Khái niệm chiến lược quân sự mới một cách kỹ càng hơn.
Tăng cường răn đe bằng 4 nền tảng
Một điểm đáng chú ý nữa là trong cuộc họp hôm 30-11, Tổng thư ký NATO Jens Stoltenberg đã nhấn mạnh đến 4 nền tảng để tăng cường khả năng răn đe, được đưa vào Khái niệm Chiến lược quân sự mới. Ông Jen Stoltenberg kêu gọi cần một nỗ lực phối hợp trong bối cảnh châu Âu không thích rủi ro, không sẵn sàng chi những gì cần thiết cho quốc phòng. Đồng quan điểm này, Ngoại trưởng Latvia Edgars Rinkevics khẳng định cùng với vấn đề hợp tác giữa NATO và Liên minh châu Âu (EU), việc nghiên cứu khái niệm chiến lược mới của NATO là một trong những nhiệm vụ chính của khối và phải duy trì khả năng phòng thủ như là mục tiêu chính của liên minh quân sự, đồng thời tiếp tục xác định mối quan hệ đoàn kết xuyên Đại Tây Dương là một điều kiện tiên quyết cần thiết để đảm bảo khả năng giải quyết các thách thức địa chính trị đang nổi lên. Lưu ý rằng, trong hơn 15 năm kể từ khi Riga đăng cai Hội nghị thượng đỉnh NATO vào năm 2006, môi trường an ninh toàn cầu đã có sự thay đổi đáng kể, Edgars Rinkevics phân tích, các mối đe dọa mới không chỉ ảnh hưởng đến các quốc gia thành viên NATO mà còn ảnh hưởng tới trật tự toàn cầu.
Vì vậy, nền tảng đầu tiên của việc tăng cường sự răn đe là các lực lượng NATO-Mỹ được triển khai ở phía trước. Kể từ Hội nghị thượng đỉnh Warsaw năm 2016, NATO đã triển khai các nhóm chiến đấu 1.000 người tăng cường hiện diện phía trước (eFP) ở ba quốc gia Baltic và Ba Lan. Ngoài ra, Mỹ cũng triển khai lực lượng quy mô cấp lữ đoàn ở Ba Lan và lực lượng cấp tiểu đoàn ở Litva và Romania, chủ yếu trên cơ sở luân phiên. Hans Binnendijk- thành viên cao cấp tại Hội đồng Đại Tây Dương và là cựu Giám đốc cấp cao về chính sách quốc phòng nói: “Các lực lượng này có thể bị đánh bại nhanh chóng bởi một cuộc tấn công quyết liệt của Nga với lợi thế về thời gian và khoảng cách. Nhưng trường hợp của Berlin trong Chiến tranh Lạnh thì eFP thực sự cung cấp “một kiềng ba chân” hữu ích. Nay, chúng ta khó có thể triển khai nhiều lữ đoàn cần thiết ở một số hoặc tất cả các nước Baltic nhưng có thể thực hiện chiến dịch làm phức tạp hơn và câu giờ để thu hút quân tiếp viện NATO. Do đó củng cố khả năng răn đe. Ví dụ, NATO có thể triển khai một số hệ thống phòng không trong khu vực, pháo tầm xa, thiết bị chống tăng, máy bay không người lái có trang bị vũ khí và lực lượng đặc biệt bổ sung đến các nước Baltic. Mỹ cũng có thể thực hiện các cuộc triển khai định kỳ của mình một cách “bền bỉ” hơn và thúc đẩy một thế trận hải quân mạnh mẽ hơn ở Biển Đen”.
Hiện, NATO đang có đầy đủ lực lượng sẵn sàng để nhanh chóng hỗ trợ đội hình mỏng của các binh sĩ triển khai phía trước. Sau khi Crimea bị Nga sáp nhập, NATO đã tái cấu trúc Lực lượng ứng phó (NRF) và bổ sung vào lực lượng này một đơn vị mũi nhọn gồm 5.000 người. Năm 2018, NATO đã đồng ý với sáng kiến sẵn sàng 4x30 (tức là có 30 tiểu đoàn, 30 phi đội không quân và 30 lính hải quân chủ lực sẵn sàng sử dụng trong 30 ngày). Các lực lượng sẵn sàng đó đã được các quốc gia xác định. Vậy, nhiệm vụ bây giờ là làm cho những lực lượng sẵn sàng đó trở thành một lực lượng răn đe hiệu quả hơn.
“Chờ đợi một cuộc khủng hoảng để kích hoạt một hội nghị tạo lực lượng là một sự lãng phí thời gian. Những lực lượng sẵn sàng đó cần được tổ chức và có một cơ cấu chỉ huy. Một gợi ý là thành lập Lực lượng hạng nặng cơ động của Bộ Chỉ huy tác chiến đồng minh NATO (AMHF). AHMF sẽ là lực lượng do châu Âu lãnh đạo (có thể do quân đoàn phản ứng nhanh của đồng minh chỉ huy) và hợp nhất các lực lượng phản ứng nhanh của đồng minh thành một nhóm duy nhất. Đây sẽ là lực lượng phản ứng đầu tiên cao cấp của NATO có thể hoạt động từ đáy biển lên không gian và trên nhiều lĩnh vực trên không, trên biển, trên bộ, không gian mạng, vũ trụ, thông tin và tri thức. Nó phải đủ mạnh mẽ và phản ứng nhanh, đồng thời được tổ chức ở mức độ sẵn sàng đủ để đối phó với mọi mối đe dọa đối với lãnh thổ của khu vực Châu Âu-Đại Tây Dương, đồng thời có thể hỗ trợ những quốc gia tiền tuyến đối mặt với các mối đe dọa xuyên quốc gia như khủng bố”, Hans Binnendijk phân tích.
Trụ cột thứ ba trong khả năng răn đe của NATO dựa trên Sáng kiến Cơ động quân sự hiện có được thiết kế để giảm thiểu việc chuyển quân qua biên giới quốc gia và giải quyết các rào cản hậu cần. EU tài trợ cho sáng kiến này với mức khá mạnh là 1,7 tỷ Euro, và Tướng Tod Wolters gần đây cũng nhấn mạnh những cải tiến đang được tiến hành. Nhưng những rào cản về thể chất và quan liêu vẫn còn rất lớn và chúng khiến tác dụng răn đe của các lực lượng sẵn sàng trở nên kém hiệu quả hơn. Một cách bổ sung để cải thiện yếu tố này là tăng đáng kể việc chuẩn bị trước thiết bị để đảm bảo các vị trí phía trước. Nếu thiết bị đã có sẵn, việc đưa quân đến sẽ ít vất vả hơn.
Yếu tố cuối cùng trong cấu trúc răn đe này là một thế trận hạt nhân đáng tin cậy. Các loại vũ khí hạt nhân chiến lược của Mỹ, Anh và Pháp đều đảm bảo khả năng răn đe hạt nhân của NATO nhưng sự thống trị của Nga về vũ khí hạt nhân chiến thuật và học thuyết “leo thang để giảm leo thang” gây ra nguy cơ Moscow có thể là người đầu tiên sử dụng thiết bị hạt nhân để đóng băng một vũ khí thông thường. Học thuyết đó có thể khiến NATO nhầm tưởng rằng một chính sách “chiếm đóng và leo thang” đang hoạt động. Một số ít bom trọng lực hạt nhân của NATO do các máy bay có khả năng kép của đồng minh (DCA) chuyển giao là câu trả lời tốt nhất mà NATO hiện có để ngăn chặn quan niệm sai lầm như vậy. Nhưng sự ủng hộ của các đồng minh đối với cách tiếp cận này của DCA dường như đang suy yếu và NATO không có học thuyết hạt nhân nào để chống lại thần học “leo thang để giảm leo thang” của Moscow. Vì vậy, NATO cần tăng gấp đôi cam kết DCA của mình và thiết kế một học thuyết hạt nhân mới đảm bảo “sự trả đũa thực tế” nếu Moscow sử dụng một cuộc tấn công hạt nhân trước.
Rõ ràng, việc tăng cường bốn yếu tố răn đe này của NATO là một phản ứng cần thiết trước một thế giới đang nhiều biến động. Nhưng cũng có thể khiến Moscow coi đó là sự leo thang hơn nữa của một cuộc chạy đua vũ trang đang diễn ra. Vì vậy, cả NATO và Mỹ đều cần duy trì đối thoại chặt chẽ hơn với Nga để tránh xảy ra những hiểu lầm không đáng có.