Nếu Mỹ cắt thông tin tình báo trên chiến trường Ukraine…
Tình báo vệ tinh Mỹ, với mạng lưới vệ tinh quân sự lớn nhất thế giới đang giữ vai trò then chốt giúp Ukraine thực hiện các cuộc phản công chính xác. Khi Mỹ ngừng chia sẻ thông tin, các vũ khí tầm xa như Storm Shadow và HIMARS sẽ mất hiệu quả, làm suy yếu khả năng chiến đấu của Ukraine trên chiến trường.
Tên lửa tầm xa dựa vào định vị vệ tinh
Sau cuộc tranh cãi gay gắt giữa Tổng thống Ukraine Zelensky và Tổng thống Trump tại Nhà Trắng, ngày 3/3, Tổng thống Mỹ Donald Trump đã tuyên bố sẽ định đình chỉ mọi viện trợ quân sự cho Ukraine, bao gồm cả những lô vũ khí đang trên đường chuyển đến. Tổng thống Trump đã đưa ra quyết định cắt viện trợ quân sự để yêu cầu Ukraine thể hiện cam kết đàm phán hòa bình và lý do ông Trump đưa ra là "muốn ngăn chặn cái chết tiếp tục diễn ra".
Sau đó, Mỹ lại tuyên bố sẽ dừng chia sẻ thông tin tình báo cho Ukraine, bao gồm cả thông tin liên quan đến các hoạt động phóng tên lửa của cả hai phía.

Theo đó, các nhà phân tích quân sự cho rằng việc Mỹ tạm dừng viện trợ quân sự và chia sẻ thông tin tình báo sẽ làm suy yếu hệ thống phòng không của Ukraine, bởi Kiev đang thiếu tên lửa tiên tiến và gặp khó khăn trong việc theo dõi các cuộc tấn công một cách hiệu quả.
Bởi trong cuộc xung đột kéo dài hơn 3 năm, tình báo Mỹ thường xuyên cung cấp cho Ukraine tọa độ mục tiêu quan trọng như sở chỉ huy, kho đạn, trận địa phòng không... của đối phương. Thông tin tình báo từ Mỹ và các đồng minh khác giúp Ukraine chuẩn bị đối phó với các cuộc tấn công bằng tên lửa, và cung cấp thông tin quan trọng trong những ngày đầu của cuộc chiến, cho phép Ukraine đánh giá được các kết quả thực chiến.
Sự hỗ trợ tình báo của Mỹ được cho là rất quan trọng đối với Ukraine để theo dõi các hoạt động di chuyển của quân đội đối phương và lựa chọn mục tiêu. Người Ukraine sử dụng thông tin khi vận hành Hệ thống tên lửa pháo binh cơ động cao do Hoa Kỳ cung cấp, hay HIMARS và Hệ thống tên lửa chiến thuật của quân đội Hoa Kỳ, được gọi là ATACMS.
Ngoài ra, lực lượng Ukraine cũng dựa rất nhiều vào vũ khí của phương Tây để giữ vững thế trận. Trong số những vũ khí mạnh nhất mà Kiev nhận được, phải kể đến tên lửa hành trình tầm xa Storm Shadow do Anh cung cấp, được thiết kế để tấn công sâu vào lãnh thổ của đối phương với độ chính xác cao. Storm Shadow là vũ khí công nghệ cao hiện đại. Trước khi phóng, tên lửa được lập trình dựa trên các thông số, như: mục tiêu, quỹ đạo bay - những thông số này được lấy từ cơ sở dữ liệu điện tử của vệ tinh Mỹ.
"Tên lửa hành trình Storm Shadow của Anh phụ thuộc vào dữ liệu tình báo từ Mỹ để bảo đảm độ chính xác. Quân đội Ukraine cũng cần kết hợp chúng với các loại tên lửa mồi bẫy do Mỹ cung cấp để đánh lừa, làm quá tải lưới phòng đối phương", Matthew Savill, Giám đốc bộ phận khoa học quân sự tại Viện Nghiên cứu Quốc phòng và An ninh Hoàng gia Anh (RUSI) nhận xét.
Chính vì vậy, Storm Shadow sẽ trở nên vô dụng nếu không có sự hỗ trợ của Mỹ, vấn đề tương tự cũng xảy với pháo phản lực phóng loạt HIMARS và M270. Thông tin tình báo của Washington đã nhiều lần giúp Kiev lựa chọn mục tiêu ở sâu trong lãnh thổ Nga hoặc các khu vực đang do Moscow kiểm soát, trước khi khai hỏa tên lửa đạn đạo ATACMS với tầm bắn tối đa 300 km. Nhờ đó, những cuộc tập kích của quân đội Ukraine có sự hỗ trợ từ tình báo Mỹ có thể vô hiệu hóa nhiều khí tài đối phương, buộc họ phải dời các trung tâm hậu cần và căn cứ dã chiến ra xa tiền tuyến hàng trăm km, làm chậm đà tác chiến của lực lượng tiền phương.

Theo Washington Post, một sĩ quan Ukraine đang tham chiến tại mặt trận Kursk tiết lộ lần cuối họ nhận được tọa độ mục tiêu từ Mỹ để tiến hành tập kích tầm xa là ngày 3/3. Liên lạc giữa hai bên đã bị đóng băng sau thời điểm này.
Biên tập viên David Axe của tạp chí Forbes cho biết tổ hợp HIMARS cần tọa độ mục tiêu để tập kích chính xác. Dữ liệu này có thể lấy từ các nguồn như vệ tinh do thám, máy bay không người lái (UAV), chặn thu liên lạc vô tuyến hay thậm chí là quan sát bằng ống nhòm. Tuy nhiên, các thiết bị trinh sát của Ukraine, đặc biệt là drone, chủ yếu chỉ được triển khai ngay tại tiền tuyến hoặc cách đó không xa. Còn từ phạm vi trên 70 km, Kiev phụ thuộc hoàn toàn vào năng lực do thám tầm xa của Washington.
"Ukraine vẫn có thể tự phát hiện mục tiêu cho pháo HIMARS bằng dữ liệu tình báo của mình hoặc các đồng minh châu Âu. Tuy nhiên, điều này sẽ khó khăn hơn nhiều khi Mỹ ngừng chia sẻ thông tin", Axe nhận định.
Ben Barry, chuyên gia tại Viện Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (IISS) có trụ sở tại Anh, cũng nhận định Ukraine sẽ gặp rất nhiều thách thức với những đòn tập kích tầm xa bằng UAV tự sát và tên lửa hành trình nếu không có dữ liệu tình báo tầm xa công nghệ cao. Ông lưu ý rằng điều đó không đồng nghĩa Ukraine đã mất khả năng phản kích, song tốc độ hành động và độ chính xác sẽ suy giảm đi nhiều. "Có khả năng các cuộc tập kích của Ukraine sẽ khiến dân thường thương vong và gây hàng loạt thiệt hại ngoài dự kiến", ông cảnh báo.
Các quan chức Ukraine thừa nhận việc nỗ lực tập kích và phản kích sẽ khó khăn hơn nhiều sau quyết định dừng chia sẻ dữ liệu tình báo do ông Trump đưa ra. Tờ Time dẫn lời 5 quan chức cấp cao của phương Tây và Ukraine cùng các sĩ quan quân đội, cho biết sự gián đoạn này đã khiến hàng trăm binh sĩ Ukraine thiệt mạng. Một sĩ quan Ukraine ẩn danh cho biết: "Sự tổn thất lớn nhất là tinh thần (của binh sĩ Ukraine). Điều này thực sự mang lại lợi thế cho đối phương trên tiền tuyến". Chính vì vậy, lực lượng Ukraine buộc phải chiến đấu mà không có một số hệ thống vũ khí tốt nhất hoặc thiết bị cũng không phát huy được tối đa hiệu quả do thiếu đi thông tin tình báo quan trọng.
Hậu quả của việc Mỹ cắt viện trợ và tình báo là đến ngày 8/3, Bộ Quốc phòng Nga tuyên bố rằng quân đội của họ đã giành lại các ngôi làng Viktorovka, Nikolaevka và Staraya Sorochina ở khu vực Kursk từ tay lực lượng Ukraine. Các bản đồ nguồn mở cho thấy Ukraine đang rơi vào tình thế nguy hiểm ở Kursk khi gần như bị Nga bao vây.
Đến ngày 11/3, Tổng thống Donald Trump tuyên bố lại tiếp tục hỗ trợ thông tin tình báo cho Ukraine.
Châu Âu "lép vế" trước tình báo của Mỹ
Trong bối cảnh thiếu sự hỗ trợ từ Mỹ, Ukraine đã chuyển sang sử dụng các nguồn lực của chính mình và các đối tác châu Âu để lấp đầy khoảng trống. Anh, Pháp và Đức vốn cũng có thế mạnh về thông tin liên lạc chiến trường và tình báo điện tử. Anh vận hành máy bay tình báo RC-135 Rivet Joint do Hoa Kỳ chế tạo để chặn các thông tin liên lạc quân sự và đầu ra radar của Nga từ không phận quốc tế. Pháp điều hành chương trình chặn CERES dựa trên vệ tinh, trong khi Đức được cho là cũng thường xuyên chặn các thông tin liên lạc của Nga.

Tình báo tín hiệu Châu Âu có thể thay thế một phần Hoa Kỳ trên chiến trường Ukraine, đặc biệt là ở các khu vực xung quanh biên giới EU/NATO. Nhưng nó sẽ không cung cấp cùng mức thông tin nếu xa hơn. Họ có thể cung cấp cho Ukraine các thông tin chặn bắt liên lạc và giám sát điện tử, nhưng không thể so sánh với phạm vi và tốc độ của vệ tinh Mỹ. Quân đội Mỹ có thể xử lý thông tin tình báo nhanh vì họ có nhiều nhà phân tích và trang thiết bị hiện đại, đặc chủng hơn.
Cộng đồng tình báo Mỹ có tới 18 cơ quan, có sức mạnh vượt trội so với bất kỳ đối tác châu Âu nào, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ vệ tinh và khả năng phân tích. “Vấn đề ở đây là quy mô. Mỹ có nhiều nhà phân tích hơn, nhiều hệ thống hơn và trong một số trường hợp, có cả những hệ thống tinh vi hơn”, ông Jim Townsend, cựu phó trợ lý Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ phụ trách châu Âu và NATO từ thời chính quyền Tổng thống Barack Obama cho biết.
Theo IISS, Châu Âu vẫn phụ thuộc vào Washington về một số năng lực quân sự quan trọng, bao gồm cả các hoạt động trong liên minh NATO. Những năng lực này trải dài từ những gì thường được mô tả là "yếu tố hỗ trợ", một thuật ngữ bao hàm tất cả các nền tảng hoặc hệ thống quan trọng để hỗ trợ năng lực chiến đấu, cho đến vũ khí hạt nhân rơi tự do cho máy bay có khả năng mang đầu đạn hạt nhân của NATO.
Theo thống kê chưa đầy đủ, trên toàn cầu hiện nay, quốc gia có nhiều vệ tinh quân sự nhất là Mỹ với 247 vệ tinh. Trung Quốc đứng thứ hai với 157 vệ tinh và đứng thứ ba là Nga với 110 vệ tinh. Hệ thống định vị toàn cầu qua vệ tinh (GPS) đã và đang giữ vai trò hết sức quan trọng từ thời chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất (năm 1990 - 1991), giúp cho liên quân do Mỹ đứng đầu nhanh chóng tiêu diệt quân đội Tổng thống Saddam Hussein. Hệ thống định vị GPS gồm các vệ tinh có khả năng cập nhật thông tin vị trí địa lý theo thời gian thực. GPS gồm ba thành phần: Vệ tinh, máy thu và trạm điều khiển mặt đất.
Trao đổi với tạp chí Scientific American (Mỹ), nhà nghiên cứu Anthony Mastalir - Đại tá, nguyên Phó Tư lệnh phi đoàn Không gian 50 tại căn cứ không quân Schriever ở Colorado nhận xét: "Sự ra đời của GPS đặc biệt kịp thời đối với lực lượng Mỹ trong chiến tranh vùng Vịnh, chủ yếu để giải quyết câu hỏi muôn thuở là tôi đang ở đâu và tôi sẽ đi đâu. Thông tin đó đặc biệt quan trọng khi bạn có rất ít cột mốc hoặc điểm tham chiếu như trong trường hợp quân đội Mỹ". Và đến thời điểm hiện tại, khi cuộc chiến Ukraine - Nga nổ ra, người ta lại càng nhận thấy nó quan trọng hơn.
Khi đó, nhờ tín hiệu GPS, liên quân có thể xác định vị trí để phá tuyến phòng thủ quân đội Iraq, đồng thời có thể bắn với mức độ chính xác chưa từng có trên sa mạc rộng lớn gần như suốt ngày đêm bất chấp điều kiện khó khăn.
Thiếu tá Không quân Marc Drake từng là trưởng phòng phân tích tác chiến, Phi đoàn tác chiến không gian số 2 trong chiến tranh vùng Vịnh, giải thích GPS rất quan trọng vì giúp bộ binh "di chuyển qua các địa hình mà người Iraq không thèm phòng thủ vì họ nghĩ không ai có thể tìm đường đi qua đó".
Nhiều nhiệm vụ tác chiến đã có thể thực hiện được hoặc cải tiến hiệu quả nhờ hệ thống GPS như ném bom chính xác, điều khiển hỏa lực pháo binh yểm trợ, định vị chính xác các đơn vị đang cơ động.