Người xây dựng nhà hát opera Sydney từng là điệp viên

Thứ Ba, 05/08/2025, 07:29

Joseph Bertony (14/3/1922 - 7/4/2019) là một kỹ sư người Pháp gốc Australia. Được đào tạo về kiến trúc hải quân, ông đã phục vụ trong Hải quân Pháp trong Thế chiến II, sau sự kiện Nước Pháp thất thủ, Joseph (hay Joe) làm gián điệp cho cục tình báo Pháp. Joe Bertony bị người Đức bắt giữ 2 lần và được chuyển đến các trại tập trung, nhưng cả 2 lần ông đều đào tẩu thành công. Sau chiến tranh, Joe được trao Huân chương vì lòng dũng cảm và di cư sang Australia.

Joseph Bertony làm việc với tư cách kỹ sư dân sự và đóng vai trò quan trọng trong việc thiết kế nên các kiệt tác kiến trúc đương thời, điển hình là việc xây dựng nên những cánh buồm của tòa nhà hát opera Sydney. Việc này đòi hỏi phải thực hiện hơn 30.000 phép tính thủ công với độ chính xác lên tới 1,3 cm. Những cuộc kiểm tra máy tính sau đó cho thấy Joe không mắc bất kỳ một lỗi nào. Về sau ông làm việc cho các dự án turbin gió và là người cố vấn cho các kỹ sư trẻ.

Người xây dựng nhà hát opera Sydney từng là điệp viên -0
Nhà hát opera Sydney khi mới bắt đầu xây dựng.

Những năm đầu đời và thời chinh chiến

Joe Bertony chào đời ở Corsica (Pháp) vào ngày 14/3/1922. Người mẹ mất ngay sau khi hạ sinh con và người cha đã gửi con trai cho dì và chú nuôi giùm. Ngay từ nhỏ Joe Bertony đã tỏ rõ sự đam mê toán học và học về kỹ thuật hải quân tại Saint-Tropez. Khi Thế chiến II bùng nổ, ông đã gia nhập Hải quân Pháp. Trong thời gian ở đó, người ta nhận ra năng lực tình báo của Joe và ông đã được tuyển dụng làm gián điệp.

Ngay sau khi bắt đầu làm việc tình báo, Joe đã bị quân Đức phát hiện và bắt giữ, chúng cầm tù ông tại trại tập trung Mauthausen-Gusen ở Áo. Ông bị ép làm lao động khổ sai nhưng tìm cách trốn thoát nhờ một lỗ hổng hành chính do đám gác ngục vô tình sơ hở trong lúc vận chuyển tù nhân. Joe Bertony lui vào hoạt động ẩn mình song lại bị bắt giữ ở Paris và lần này là được chuyển đến trại tập trung Buchenwald. Nhờ năng lực kỹ thuật của mình, Joe có cơ may được làm việc trong một nhà máy ngụy trang sản xuất bom bay V-1 và tên lửa V-2.

Dù không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải tuân thủ, nhưng trong suốt quãng đời còn lại Joe luôn có mặc cảm xấu hổ vì đã trực tiếp góp tay chế tạo ra những thứ vũ khí giết người đó. Khi đó những người lao động khổ sai thường nhận khẩu phần ăn rất ít ỏi, may mắn thì vớ được 1 ổ bánh mì cho ngày đó (5 người mới có 1 người nhận được bánh mì). Ông có hệ tiêu hóa tốt và thường chia phần của mình với những bạn tù khác, điều này khiếm bọn lính canh SS tức tối. Thi thoảng Joe được chuyển đến các nông trại để làm việc, ông được chỉ định làm “carotenfuhrer” hiểu nôm na là người tù nhân có nhiệm vụ trông coi các kho chứa cà rốt. Tù nhân bị cấm ăn hoa màu từ mùa màng mà họ thu hoạch, để sống sót, Joe phải luộc cỏ mà ăn. Với tư cách “carotenfuhrer”, nếu Joe Bertony cho phép tù nhân ăn cà rốt (như ông đã làm nhiều lần) thì nếu bị phát hiện cả ông và bạn tù sẽ bị lột đồ và đánh đòn. 

Sau này ông Joe Bertony kể rằng mình ăn rất ít và phải vận dụng trí thông minh thì mới sống sót được. Vào năm 1945 ngay lúc cuối Thế chiến II, khi các lực lượng Mỹ tiến hành giải phóng khu trại tập trung Buchenwald thì Joe tỏ ra rất phấn khởi. Ông nghe rõ mồn một tiếng lính Mỹ rầm rập áp sát địa đạo ngầm nơi ông bị giam cầm. Nhưng trước khi Đức đầu hàng, đám lính SS đã tập hợp các tù nhân và giải họ ra khỏi trại tập trung tiến về phía trung tâm nước Đức. Tại biên giới Séc gần các rặng núi, bọn chúng đẩy các tù nhân trên một con tàu chở đầy gia súc.

Ông Joe sau này nhớ lại: “Có một toa tàu chỉ dành cho các tù nhân phạm tội trong trại tập trung. Rồi thì bọn SS bắt đầu tống chúng tôi ra khỏi các toa tàu, đào một cái hố thật lớn, bắn chết từng người rồi đẩy họ xuống hố. Có một bạn tù đi cùng tôi và chúng tôi quyết định ăn may, lúc tàu đang chạy, chúng tôi đã nhảy khỏi tàu và rơi xuống đống tuyết ven đường ray. Chúng tôi gần như trần như nhộng cuốc bộ trong tuyết (mặc duy nhất bộ đồ trong trại khá mỏng manh), và hầu như không ăn gì suốt 10 ngày ròng rã”.

Ông Joe bồi hồi tiếp tục kể: “Khi đi qua phòng tuyến SS, chúng tôi gần như sắp chết. Vừa hay khi đó đoàn xe tăng Mỹ cũng ùn ùn tiến đến, xem ra chúng tôi chưa tận số. Tôi tách người bạn tù kia trước khi đến tiền tuyến vì cả 2 không thể cùng nhau vượt biên. Anh ta băng qua biên giới cách đó vài cây số, tìm thấy một nông trại gần tiền tuyến. Chúng tôi giữ liên lạc với nhau suốt nhiều năm - anh ấy hơn tôi 1 tuổi nhưng đã mất 10 năm trước rồi”. Joe Bertony chỉ mới nhận hồ sơ quân sự Pháp gần đây tức 70 năm sau Thế chiến II. Tướng Charles De Gaulle thuở sinh thời đã mô tả ngắn gọn về chủ nghĩa anh hùng của Joe Bertony: “sự tôi luyện dũng cảm”.

Nhiều năm sau Joe đã sử dụng chính tinh thần tôi luyện dũng cảm đó để trở thành người kỹ sư đã phát minh ra mái vòm dựng đứng, giúp hiện thực hóa việc xây dựng nên phần vỏ (mái) của Nhà hát opera Sydney. Sau này đích thân chính phủ Pháp đã trao Huân chương dũng cảm cho Joe Bertony vì những hành động sinh tồn phi thường của ông trong những điều kiện khắc nghiệt. 

Người xây dựng nhà hát opera Sydney từng là điệp viên -0
Joseph (Joe Bertony), cựu điệp viên, nhà phát minh mái vòm dựng đứng làm nên Nhà hát opera Sydney.

Nhà hát opera Sydney

Năm 1952, Joe Bertony rời châu Âu nhằm tìm kiếm một tương lai tốt đẹp hơn bằng việc chuyển đến Tây Australia và làm việc tại các mỏ uranium tại Rừng Rum (Lãnh thổ phương Bắc).  Ông sống gần Bachelor, cách Darwin độ 100 km về hướng Nam, thị trấn này được dựng lên nhằm làm nhà ở cho cánh công nhân mà chủ yếu là những ngoại kiều độc thân không có giấy tờ lao động như Joe Bertony. Lúc đó Australia đang áp dụng một chương trình cho phép công dân châu Âu cư trú vĩnh viễn nếu họ có việc làm tại nước này trong 2 năm. Joe làm kỹ sư tại Hornibrook (Queensland) - một công ty xây dựng nổi tiếng với các dự án cầu cống - do đáp ứng các yêu cầu của công ty: yêu cầu ông tới Sydney để giải quyết vấn đề xây dựng hóc búa nhất mà công ty này gặp phải, đó là làm cách nào để dựng mái vòm cho Nhà hát opera Sydney?

Ông David Evans, người được yêu cầu kiểm tra khả năng tính toán của Joe Bertony trên máy tính, sau đó quả quyết: “Có thể lập luận rằng ông Corbett Gore (giám đốc công ty xây dựng Hornibrook có thể tìm ra một người khác hoặc một nhóm người để làm những gì mà Joe đã làm, song tôi hoài nghi rằng ai có thể làm giỏi hơn Joe trong việc tạo ra những hệ thống giàn khung ống lồng, hay các xà nhà, hoặc làm hàng tá việc tại đại công trường đó. Những giải pháp khác sẽ không sánh được với sự tao nhã và thiên tài của ông ấy”.

Tại thời điểm đó ở Australia chỉ có duy nhất 1 máy tính đủ lớn để đáp ứng những yêu cầu tính toán: IBM 7090 đặt tại Cơ sở nghiên cứu vũ khí tầm xa (WRE) đặt tại Nam Australia (đây là tổ chức nghiên cứu hàng không vũ trụ và quốc phòng quan trọng mà cụ thể là liên quan đến những bước phát triển về tên lửa, hệ thống radar và chiến tranh điện tử. Thành lập năm 1955, WRE ban đầu được đặt ở Salisbury, đóng một vai trò then chốt trong nghiên cứu vũ trụ thuở ban đầu của Australia, bao gồm việc phát triển ra vệ tinh WRESAT, sau này WRE trở thành Trung tâm nghiên cứu quốc phòng Salisbury (DRCS) năm 1978).

Đầu thập niên 1960, Joe Bertony tham gia chỉ huy đại công trường Nhà hát opera Sydney (SOP). Bản thiết kế của tòa nhà có một số cánh buồm cực lớn được tạo thành từ 22.194 đoạn bê tông đúc sẵn và gây rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng nó. Giai đoạn một của nhà hát là một cái bục có hình dáng hao hao kim tự tháp Maya. Giai đoạn hai là phần mái vòm màu trắng được bắt đầu xây dựng vào ngày 25/3/1963. Chính phần lớn những phương trình toán học do Joe viết ra đã khiến cho việc xây dựng phần mái vòm vốn cực kỳ phức tạp đã trở nên khả thi. Phải cần tới 30.000 phương trình riêng biệt mới tính ra được lượng ứng suất cần thiết. Sai số cho phép không được quá 12,7 mm trong việc ghép các đoạn bê tông lại với nhau; chỉ cần một sai sót nhỏ cũng khiến cả công trình lệch khỏi vị trí. Mọi thứ đều cong và không có mặt phẳng nào trên toàn bộ mái nhà, vì vậy mà nó có cấu trúc hình học rất phức tạp.

Các đoạn bê tông cần được cố định tại chỗ bằng nhựa epoxy và Joe Bertony quyết định rằng cần phải có một hệ thống giàn thép “vòm dựng đứng” nhằm nâng cả kết cấu trong điều kiện tạm thời. Ông Joe đã quyết định sử dụng giàn di động dạng ống lồng. Cấu trúc này không hề có các bộ phận thẳng, rất phức tạp, biên độ sai số được yêu cầu là 0,5 inch (tương đương 1,3 cm).  Các tính toán cần phải được thẩm tra về độ an toàn. Và mọi thứ do máy tính thực hiện. Đó là cỗ máy IBM 7090 tại WRE ở Woomera. Điều này chỉ được thực hiện vào ban đêm và 1 tuần cho mỗi tháng. Khi đại công trình đi vào hoạt động, đích thân giám đốc điều hành Nhà hát opera Sydney, ông Louise Herron, đã không ngớt lời ngợi ca: “Joe Bertony là một thiên tài. Nếu không có ông ấy, những cánh buồm (mái vòm của nhà hát) ngoạn mục sẽ không bao giờ biến thành sự thật”.

Người xây dựng nhà hát opera Sydney từng là điệp viên -0
Các tù nhân tại trại tập trung Buchenwald.

Cuộc đời sau này

Sau nhà hát Opera, ông Joe Bertony còn làm việc cho nhiều dự án khác cũng ở Sydney, bao gồm cầu Roseville ở Trung Cảng và cây cầu Tổ chim bắc qua sông Nepean. Joe đã hào phóng tặng các bảng tính toán trong thời gian ông làm việc cho dự án Nhà hát opera Sydney cho Bảo tàng Khoa học và nghệ thuật ứng dụng (MAAS), hiện thời chúng được lưu giữ như là một phần của bộ sưu tập Bảo tàng Powerhouse. Sau đó Joe Bertony còn tính toán rằng một mô hình từ trước đó - mô hình tham vọng hơn cả Nhà hát opear Sydney với những cánh buồm bê tông mặt phẳng - cũng có khả thi về mặt kỹ thuật. Thập niên 1990, ông Joe làm việc cho một công ty Scotland để thiết kế nên các tuốc bin gió trục thẳng đứng, và tại thời điểm qua đời, Joe đang cần mẫn làm việc cho một trang trại điện gió ở Scotland. 

Người vợ của ông Joe Bertony vốn là nghệ sĩ dương cầm kiêm vật lý trị liệu tại Hornibrook. Hai ông bà không có con cái, bà qua đời năm 2016. Thuở sinh thời, Joe Bertony là người yêu ẩm thực Pháp và thường dùng bữa tại các nhà hàng danh tiếng ở Sydney. Ông cũng quan tâm đến xe điện và thường giúp đỡ lớp kỹ sư trẻ. Joe Bertony tạ thế tại nhà riêng ở Sydney vào ngày 7/4/2019.

Phan Bình (Tổng hợp)
.
.