Những nhà tình báo dạy học

Thứ Năm, 20/11/2025, 20:37

Nhiều nhà tình báo nổi tiếng của nước ta đã làm nghề dạy học, hoặc đóng vai thầy giáo cho những hoạt động công khai hay bí mật của mình, điển hình như Thiếu tướng Nguyễn Đình Ngọc từng làm giáo sư chính thức ở Đại học Sài Gòn, hay Đại tá Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) cũng nhờ vỏ bọc gia sư dạy tiếng Anh để sống trong gia đình bà Nguyễn Thị Mỹ Nhung (Tám Thảo).

Tất nhiên, các nhà tình báo có nhiều vỏ bọc khác nữa, như nhà báo, công chức… mặc dù vậy, giáo viên là một nghề được khá nhiều điệp viên lựa chọn. Bởi vì đây là một nghề quảng giao, dễ dàng tiếp xúc với nhiều người, nhất là với các gia sư còn có thể ra vào nhiều gia đình, trong đó không ít gia đình có chức quyền, để thu thập được những thông tin tình báo giá trị.

Để làm giáo viên, người điệp viên phải học giỏi, có năng lực sư phạm. Nhưng với các điệp viên, những điều kiện đó đâu có gì khó.

“Giáo sư lập dị” ở Đại học Sài Gòn

Một trong những điệp viên thành công nhưng khá bí ẩn của ngành tình báo Việt Nam là Thiếu tướng Nguyễn Đình Ngọc, người hoạt động liên tục từ năm 1966 đến năm 1975 tại Sài Gòn, chuyển về cho cấp trên rất nhiều tin tức giá trị.

b.jpg -0
Thiếu tướng Nguyễn Đình Ngọc

Ông Nguyễn Đình Ngọc sinh năm 1932, quê ở xã Phượng Dực (huyện Phú Xuyên trước đây), Hà Nội. Cha ông là bác sĩ Nguyễn Đình Diệp, phụ trách Quân y của Trung đoàn 121, Quân đội nhân dân Việt Nam. Năm 1947, trong một trận càn của Pháp, bác sĩ Diệp cùng cậu bé Ngọc, lúc đó là liên lạc, bị Pháp bắt. Sau đó, người cha bị quân Pháp thủ tiêu, trước khi chia tay, ông dặn cậu con trai 15 tuổi cố gắng học giỏi để giúp đỡ người khác học.

Được quân giặc thả vì còn nhỏ tuổi, Nguyễn Đình Ngọc về Hà Nội sống với mẹ. Đến năm 1950, để không tránh các vụ bắt lính của Pháp, ông ra vùng tự do và lọt vào “mắt xanh” của Giám đốc Công an Liên khu 4 Nguyễn Hữu Khiếu. Sau khi thẩm tra, thử thách, cậu học sinh yêu nước Nguyễn Đình Ngọc được đưa vào lớp huấn luyện điệp báo. Tháng 12/1953, ông được đưa trở lại vào hoạt động ở Hà Nội và ông đã xin với cấp trên mang bí danh Diệp Sơn để luôn nhớ tới cha mình và một người em đã mất, tên Sơn.

Năm 1954, Nguyễn Đình Ngọc theo chân đoàn người di tản vào Sài Gòn. Ông cưới vợ, cũng là một nữ sinh gốc Hà Nội học giỏi và hai vợ chồng thi được học bổng sang Pháp học.

Nhớ lời dặn của thủ trưởng Hữu Khiếu: “Cố học lên, càng nhiều bằng cấp càng tốt để tạo một vỏ bọc vững chắc trong giới trí thức miền Nam. Em vừa là nhà khoa học kiêm tình báo hoạt động lâu dài trong lòng địch, cung cấp những tin tức quan trọng có tầm chiến dịch, chiến lược”, ông Ngọc cặm cụi học không ngừng nghỉ và đạt được nhiều bằng cấp hạng ưu.

Với trí thông minh cùng quyết tâm cao độ, ông Nguyễn Đình Ngọc tốt nghiệp với 3 bằng kỹ sư về các ngành khá khác biệt: Thủy văn - Khí tượng, Đóng tàu và Viễn thông. Sau đó, ông tiếp tục lấy 2 bằng tiến sĩ về Địa lý và Toán học, trở thành người Việt Nam hiếm hoi là giáo sư giảng dạy tại các trường đại học danh tiếng của Pháp như Đại học Hải công, Đại học Viễn thông, Đại học Sorbonne...

Trong thời gian này, ông vẫn thường xuyên kết nối với tổ chức thông qua các đầu mối liên lạc ở châu Âu. Đến năm 1966, theo yêu cầu của tổ chức, ông để lại vợ con ở Pháp, về nước làm giáo sư giảng dạy tại Viện Đại học Sài Gòn. Từ đó đến ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Nguyễn Đình Ngọc đã lập nhiều chiến công, có nhiều tin tình báo chính xác và kịp thời.

Giáo sư tạo cho mình vỏ bọc với hình ảnh người “lập dị”: Chỉ quan tâm khoa học, không để ý tiền bạc, sống độc thân, cửa dùng 7 chiếc khóa, ngày chỉ ăn một bữa, chỉ đi bộ hoặc đi xe đạp, giỏi xem tử vi…

Ngoài ra, do có kiến thức về Tin học, ông còn được mời cộng tác làm việc cho hệ thống tính toán của quân lực Việt Nam Cộng hòa và cả quân đội Mỹ.

Cũng nhờ môi trường dạy học mà ông móc nối lại với tổ chức. Đó là một buổi nhóm sinh viên đến nhà ông trao đổi bài, khi các bạn về hết, một sinh viên đưa ra chiếc dây đồng hồ cũ, hỏi: “Thầy còn giữ nửa dây đồng hồ Omega không?”. Đây chính là ám hiệu để liên lạc. Theo lệnh của tổ chức, trong một chuyến đi dạy tại Đại học Huế, ông gặp "cô Phương Lan", để nhận những chỉ thị mới.

Do mối quan hệ công việc và xã hội, ông đã cung cấp nhiều thông tin rất quan trọng một cách kịp thời và chính xác cho cấp chỉ huy như các cuộc tập kích vào Trung ương Cục Miền Nam năm 1966, khả năng năm 1968 Mỹ sẽ đổ thêm quân viễn chinh vào chiến trường miền Nam, hay nhận định quan trọng vào tháng 4/1975, là Mỹ không quay lại can thiệp, giúp bộ thống soái Quân đội nhân dân Việt Nam quyết tâm dốc toàn lực cho chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.

Sau ngày miền Nam giải phóng, nhà tình báo Nguyễn Đình Ngọc tiếp tục cống hiến cho ngành Công an qua các chức vụ Phó Cục trưởng rồi Cục trưởng Cục V17 (Khoa học Viễn thông và Tin học thời đó), trước khi về hưu với hàm Thiếu tướng. Tuy nhiên, ông vẫn không bỏ nghề giảng viên, khi tiếp tục tham gia giảng dạy tại các trường đại học về kỹ thuật. Đến khi về hưu, ông dành toàn bộ thời gian và tâm trí với nghề dạy học, khi tham gia sáng lập nhiều trường đại học như Đại học dân lập Tây Đô, Cần Thơ, Đại học dân lập Thăng Long, Hà Nội, cho đến khi qua đời năm 2006.

Vừa để hoạt động, vừa là kế sinh nhai

Bên cạnh Giáo sư Nguyễn Đình Ngọc, nhiều nhà tình báo khác cũng từng dùng nghề giáo làm kế sinh nhai. Như trong lưới tình báo A22 nổi tiếng, các điệp viên Lê Hữu Thúy, Huỳnh Văn Trọng đều đã theo nghề dạy học.

Nhà tình báo Lê Hữu Thúy sinh năm 1926 tại Hoằng Hóa, Thanh Hóa, gia đình tuy không người theo đạo nhưng ông được cho đi học trường dòng, được học chữ Nho, giáo lý… Chính sự ngẫu nhiên đó, sau này lại như một sự sắp đặt cho nghề tình báo của ông. Khi được cử vào nội thành hoạt động, ông đã theo học bậc Đại học, vừa đi dạy kiếm sống tại trường trung học Nam Đồng của Dòng Chúa Cứu Thế ở Ô Chợ Dừa Hà Nội. Khi vào Nam hoạt động, ông học thêm về triết học qua một linh mục là khoa trưởng ở một trường đại học.

Năm 1956, khi vào Sài Gòn, nhà chỉ huy tình báo Trần Quốc Hương (Mười Hương) đã chỉ thị cho Lê Hữu Thúy đi sâu vào khối công giáo di cư. Qua các mối quan hệ quen biết với nhiều linh mục, ông dễ dàng thực hiện những bước đầu tiên nhiệm vụ được giao. Ông bắt mối với linh mục Vũ Đình Trác làm tờ báo “Di cư”; làm phụ tá chủ bút báo “Đường sống”... Những bài xã luận am hiểu sâu sắc về thời cuộc, đặc biệt là đời sống xã hội của các giáo phái lúc bấy giờ của ông gây được tiếng vang lớn, có những ảnh hưởng nhất định với công chúng.

aa.jpg -0
Đại tá Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang)

Năm 1969, hoạt động  bị lộ, ông bị chính quyền Sài Gòn kết án tù chung thân khổ sai, năm 1971 bị đày ra Côn Đảo. Trước khi xuống tàu, ông được Trung tâm chỉ thị tìm mọi cách ra ngoài làm dịch vụ để tiếp tục nhận công tác. Sau mấy tháng bị giam, ông được người quen có chức vị ở đảo vận động được ra ngoài dạy kèm tiếng Anh cho con chúa đảo, vừa làm phụ kế toán cho một tù nhân sắp được ra tù để thay thế người này. Vị trí này lại tiếp tục giúp ông lập thêm chiến công, khi lấy được bản danh sách tù nhân chính trị đang bị giam giữ tại Côn Đảo, gửi về làm bằng chứng để vạch mặt chính quyền Nguyễn Văn Thiệu tại Hội nghị Paris. Nhờ đó dư luận thế giới đã lên tiếng ủng hộ cuộc đấu tranh bên bàn Hội nghị của chúng ta. Sau vụ bê bối này, Nguyễn Văn Thiệu khi sang Roma đã bị Giáo hoàng từ chối tiếp.

Cũng trong lưới tình báo A22, Huỳnh Văn Trọng còn là một chính khách tầm cỡ. Ông từng là một bộ trưởng dưới thời Bảo Đại, sau khi bị bỏ rơi hoàn toàn dưới thời Đệ nhất Cộng hòa của Ngô Đình Diệm, ông tỏ ra bất mãn, nên phát huy khả năng tiếng Anh để chuyển sang làm công việc dạy học cho các nhân viên dân sự Mỹ tại Sài Gòn. Qua Huỳnh Văn Trọng, Lê Hữu Thúy đã khai thác được một số thông tin quan trọng.

Bên cạnh đó, chính nhà chỉ huy tình báo Mười Hương, khi mới thâm nhập vào Sài Gòn, cũng sử dụng vỏ bọc là giáo viên dạy tư. Nhờ đó, ông Mười Hương đã móc nối thành công với điệp viên Vũ Ngọc Nhạ để triển khai tiếp kế hoạch đã vạch cho lưới tình báo A22 nổi tiếng.

Người Cụm trưởng Cụm tình báo H63, Đại tá Nguyễn Văn Tàu, đến nay đã gần 100 tuổi, nhưng qua những video các bạn trẻ quay, đăng lên mạng, cho thấy ông vẫn nói tiếng Pháp, tiếng Anh trôi chảy. Ông học chương trình học thời Pháp thuộc nên nói tiếng Pháp trôi chảy không có gì lạ. Nhưng sau đó, ông học thêm tiếng Anh và nhờ vỏ bọc gia sư tiếng Anh, ông đã có thể sinh sống công khai trong gia đình điệp viên Nguyễn Thị Mỹ Nhung (Tám Thảo), căn nhà chỉ cách Dinh Độc lập có 100m.

Nhưng người gia sư tiếng Anh đầu tiên cho bà Tám Thảo lại chính là điệp viên huyền thoại: Thiếu tướng Phạm Xuân Ẩn. Là người đã du học 3 năm ở Mỹ, Phạm Xuân Ẩn không chỉ nói tiếng Anh “như người Mỹ” mà còn hiểu rõ cách suy nghĩ và văn hóa của người Mỹ. Theo yêu cầu nhiệm vụ, bà Tám Thảo cần xây dựng cho mình một hình ảnh hoàn hảo trong mắt dân chơi Sài Gòn, nên đã đi học nhảy đầm, học tiếng Anh để có thể giao tiếp với người Mỹ. Người thầy đầu tiên dạy tiếng Anh cho bà chính là Phạm Xuân Ẩn, người mà bà đã giúp ông móc nối trở lại với tổ chức sau khi đi du học về.

3.jpg -0
Một phần bức tranh được vẽ hoàn toàn bằng phấn màu trên bảng xanh của thầy giáo Nguyễn Trí Hạnh - giáo viên Mỹ thuật, Trường THPT Hermann, thành phố Vinh về sự kiện ngày 30/4/1975

Bà Tám Thảo luôn xem Phạm Xuân Ẩn là người anh đáng quý của mình, điều đó càng thôi thúc bà có cảm tình với việc học ngoại ngữ. Nhờ khả năng tiếng Anh tốt và bản lĩnh, sự tự tin, bà đã trúng tuyển vào làm phiên dịch viên ở cơ quan thuộc Bộ Tư lệnh Hải quân tại Sài Gòn, thường xuyên tiếp xúc với các tài liệu quân sự quan trọng để cung cấp về cho cấp trên.

Bên cạnh những điệp viên thành công, cũng có những điệp viên thất bại, và lấy nghề giáo làm nghề chính của mình. Các cuốn sách kể về nhà tình báo Phạm Xuân Ẩn, hay truyện ký của nhà văn Nguyễn Khải, có kể chuyện về hai điệp viên thầm lặng trong số rất nhiều điệp viên như vậy. Họ được tổ chức tuyển chọn ở miền Bắc, đưa vào hoạt động từ khi mới 15, 16 tuổi, theo chân đoàn người di tản vào miền Nam năm 1954. Cả hai tiếp tục theo học trung học, và học rất giỏi. Sau đó, họ gia nhập quân đội Sài Gòn, thi được suất đi học chuyên môn ở Mỹ. Nhưng khi trở về nước, trước khi được phân về các đơn vị, hồ sơ của họ bị cơ quan an ninh quân đội Sài Gòn phát hiện những điểm đáng ngờ. Cuối cùng, không có đủ chứng cứ, chính quyền Sài Gòn chỉ có thể loại họ ra khỏi quân đội. Họ trở về với nghề dạy học, đều trở thành những giáo viên dạy giỏi có tiếng, nhưng không đóng góp được gì cho nghề tình báo nữa. Sau ngày miền Nam giải phóng, nhà văn Nguyễn Khải có gặp họ, và ngạc nhiên khi nghe họ bình thản nói về thất bại của mình, coi rằng phải có những thất bại như vậy, thì mới có được những thành công lớn trong nghề tình báo, đóng góp vào sự nghiệp chung của đất nước.

Lê Tiên Long
.
.