Vì sao âm mưu ám sát Hitler bị bại lộ?

Thứ Ba, 02/09/2025, 16:18

Thiếu tướng Hans Paul Oster (9/8/1887 - 9/4/1945) là một tướng quân trong Các lực lượng vũ trang quân đội Đức Quốc Xã (ĐQX) và cũng là một nhân vật lãnh đạo trong phong trào kháng ĐQX giai đoạn 1938-1943.

Là Phó giám đốc Cục phản gián của Abwehr (tình báo quân sự Đức), Hans Oster có vị trí lý tưởng để tiến hành những hoạt động kháng chiến dưới vỏ bọc tình báo. Ông dính líu vào cái gọi là Âm mưu Oster trong tháng 9/1938 và bị bắt giữ vào năm 1943 bởi nghi ngờ đã giúp các sĩ quan Abwehr đưa người Do Thái trốn khỏi nước Đức.

Sau khi Âm mưu tháng 7 (năm 1944) nhắm vào tiêu diệt Adolf Hitler bị thất bại, trong một cuộc thẩm vấn, Hans Oster buộc phải khai ra cái tên Đô đốc Wilhelm Canaris (người đứng đầu Abwehr) là “thủ lĩnh tinh thần của Phong trào kháng chien”^'. Mật vụ Đức (Gestapo) đã nhanh chóng bắt sống Canaris và cuối cùng đã tìm thấy những cuốn nhật ký của ông, trong đó có hé lộ những hoạt động kháng ĐQX của Hans Oster. Tháng 4/1945, Hans Oster bị xử giảo cùng với Canaris và Dietrich Bonhoeffer tại trại tập trung Flossenburg.

Vì sao âm mưu ám sát Hitler bị bại lộ? -0
Thiếu tướng Hans Oster, phó thủ lĩnh Cơ quan tình báo Abwehr của Đức Quốc Xã trong một bức ảnh không đề ngày tháng.

Tư tưởng chống Hitler ngay từ đầu

Hans Oster sinh ra tại Đresen (Saxony, Đức) vào năm 1887, là con trai của một mục sư người Alsatian thuộc giáo hội Tin Lành Pháp. Năm 1907, ông gia nhập lực lượng pháo binh và trong Thế chiến I, ông phục vụ tại Mặt trận phía Tây cho đến năm 1916 khi ông được bổ nhiệm làm đại uý cho Bộ Tổng tham mưu Đức. Sau chiến tranh, ông được đánh giá có phẩm chất tốt đủ để giữ lại trong Lực lượng Phòng vệ quốc gia nơi mà quân số được giới hạn ở mức 4000. người chiếu theo Hiệp ước Versailles.

Năm 1932, Hans Oster buộc phải từ chức trong quân đội khi gặp rắc rối với một phụ nữ đã có chồng, rồi cũng rất nhanh chóng có việc trong một tổ chức mới do Hermann Goring thành lập dưới sự chỉ huy của cảnh sát Phổ. Tháng 10/1933, Hans Oster được chuyển đến Abwehr và tình cờ gặp được 2 nhân vật Hans Bernd Gisevius và Arthur Nebe đang làm việc cho Gestapo, bộ ba này tạo thành những kẻ chủ mưu. Hans Oster cũng trở thành bề tôi tâm phúc của đô đốc Canaris. 

Giống như nhiều sĩ quan khác, Hans Oster hoan nghênh chế độ quốc xã. Tuy vậy, quan điểm này đã thay đổi chóng vánh sau sự kiện Đêm Dao Dài năm 1934 trong đó thế lực SS đã sát hại nhiều thủ lĩnh đối thủ SA và các thành phần bất đồng chính trị của họ gồm cả tướng Kurt von Schleicher - Thủ tướng áp chót của Cộng hoà Weimar và Thiếu tướng Ferđinan von Bredow - nguyên lãnh đạo Abwehr. Năm 1935, Hans Oster được phép tái ngũ song không bao giờ được tái bổ nhiệm vào Bộ Tổng tham mưu nữa.

Năm 1938, nổ ra sự kiện Blomberg - Fritsch và cuộc tàn sát người Do Thái do ĐQX triển khai càng khiến Hans Oster sinh thêm lòng căm thù chống chủ nghĩa Quốc xã và càng thôi thúc giúp người Do Thái. Trong cuộc khủng hoảng Fritsch, lần đầu tiên Hans Oster gặp gỡ Thượng tướng Ludwig Beek - Tổng tham mưu trưởng - để nhằm tạo dựng mối quan hệ cho Âm mưu Oster vào tháng 9/1938. 

Đối với những kẻ chủ mưu thì vị trí của Hans Oster trong Abwehr hết sức quan trọng, vì đây là cơ quan có thể cung cấp giấy tờ giả cùng các tài liệu bị hạn chế nhằm che đậy những hoạt động ủ mưu thành công tác tình báo, liên kết những hạt nhân kháng chiến riêng lẻ, cung cấp tình báo cho những kẻ chủ mưu. Hans Oster cũng đóng vai trò trung tâm trong âm mưu quân sự đầu tiên nhằm lật đổ Adolf Hitler mà căn nguyên là ý định xâm lăng Tiệp Khắc của Quốc trưởng.

Tháng 8/1938, Ludwig Beck nói công khai tại một cuộc họp với đông đủ tướng lĩnh quân đội tề tựu tại Berlin rằng ông phản đối cuộc chiến với các cường quốc phương Tây liên quan đến Tiệp Khắc. Khi nhận được mật tin báo về, Hitler yêu cầu phải làm rõ chuyện này và Ludwig Beck đành phải từ chức. Vì Beck được kính trọng cao trong quân đội nên việc ông bị loại bỏ khiến hết thảy giới sĩ quan chấn động. Người kế nhiệm Ludwig Beek là Franz Halder vẫn giữ liên lạc với Beek và cả với Hans Oster. Về cá nhân mình, Beek quả quyết “Hitler là hiện thân của cái ác!”. 

Vì sao âm mưu ám sát Hitler bị bại lộ? -0
Tướng Walther von Brauchitsch, Tổng Tư lệnh quân đội Đức.

Bộ ba Oster, Gisevius và Hjalmar Schachf thúc giục Halder cùng Beck tiến hành một cuộc đảo chính chống lại Hitler. Vậy nhưng, các tướng quân đội cho rằng họ có thể huy động sự hỗ trợ trong quân đoàn sĩ quan nếu Hitler công khai động thái tiến tới chiến tranh. Franz Halder yêu cầu Hans Oster vạch ra kế hoạch đảo chính và cuối cùng nhất trí rằng Halder sẽ là người chủ mưu đảo chính khi Hitler công khai tiến hành chiến tranh.

Các phái viên của những người này đã âm thầm đến Anh với sự hỗ trợ của Hans Oster và Abwehr nhằm thuyết phục người Anh kiên quyết chống lại Hitler đối với cuộc khủng hoảng Sudeten. Ngày 28/9, Thủ tướng Anh khi đó là Neville Chamberlain nhất trí sẽ có cuộc họp ở Munich nơi ông chấp nhận việc phân chia Tiệp Khắc. Vậy nhưng thắng lợi ngoại giao của Hitler đã làm suy sụp và suy yếu tinh thần của những phần tử chủ mưu. Cho đến khi đó dường như Halder vẫn muốn tiến hành đảo chính. 

Vào giữa năm 1939 khi chiến tranh có nguy cơ bùng nổ, những nỗ lực đảo chính đã được khơi lại. Hans Oster vẫn giữ liên lạc với Halder và Witzleben. Tuy nhiên, nhiều sĩ quan mà cụ thể là những người có xuất thân địa chỉ quý tộc người Phổ đã mạnh mẽ chống lại Ba Lan và cho rằng một cuộc chiến để giành lại Danzig và những lãnh thổ bị mất ở phía Đông là hoàn toàn chính đáng. Sau khi Thế chiến II bùng nổ, việc kháng cự trong quân đội trở nên khó khăn hơn vì nó có thể dẫn đến thất bại của Đức.

Khi Hitler quyết định tấn công Pháp chẳng mấy chốc sau khi xâm lược Ba Lan vào năm 1939, Franz Halder cùng với các tướng cấp cao khác nghĩ rằng điều này là hoàn toàn phi thực tế và một lần nữa ý tưởng đảo chính lại được ấp ủ (do Hans Oster và Canaris thúc giục). Khi Hitler thề sẽ san bằng “Tinh thần Zossen” (Tổng hành dinh bộ chỉ huy tối cao của Lục quân), Halder sợ rằng âm mưu đảo chính sẽ bị phát hiện nên đã tiêu huỷ toàn bộ những tài liệu có thể buộc tội.

Hans Oster đã thông báo cho bạn mình là Bert Sas (tuỳ viên quân sự Hà Lan ở Berlin) sớm hơn 20 lần so với ngày hoãn cuộc xâm lược Hà Lan. Bert Sas đưa tin này cho chính phủ Hà Lan nhưng họ không tin lắm. Hans Oster tính toán rằng hành động phản quốc của mình có thể tước đoạt sinh mạng của 4 vạn lính Đức nên tư tưởng cũng đấu tranh dữ dội. Nhưng rồi Hans Oster kết luận rằng cần thiết phải ngăn chặn hàng triệu người chết có thể xảy ra trong cuộc chiến kéo dài sau khi Đức bị từ chối chiến thắng sớm.

Cần biết rằng giai đoạn 1940 tới 1942 là thời kỳ suy thoái nhất trong phong trào kháng Đức. Một số sĩ quan hào hứng vì đã sai lầm khi lo sợ một thảm kịch quân sự. Số khác vẫn tiếp tục chống đối Hitler và chế độ Quốc xã nhưng chùn bước trước sự ủng hộ to lớn của dân chúng Đức với nhà độc tài khiến cho bất kỳ hành động nào cũng trở nên bất khả thi.

Không hề nao núng, Hans Oster đã tái thiết một mạng lưới kháng chiến. Năm 1941, sau cuộc xâm lược Liên Xô thì cuộc diệt chủng người Do Thái một cách có hệ thống đã bắt đầu, tổ chức Abwehr của Oster đã thiết lập liên lạc với tổ chức kháng chiến của Henning von Tresckow tại Trung tâm cụm tập đoàn quân. Năm 1942, tân binh quan trọng nhất do chính Hans Oster tuyển chọn là tướng Friedrich Olbricht - người đứng đầu Văn phòng Tổng cục quân đội Đức tại Bendlerblock (Bendlerblock là một khu phức hợp xây dựng ở quận Tiergarten của Berlin (Đức) nằm trên Stauffenbergstrae.

Được xây dựng vào năm 1914 với tư cách là trụ sở của một số văn phòng Hải quân Đế quốc Đức, nó phục vụ Bộ Reichswehr sau Thế chiến I và cũng dùng làm cơ quan tình báo Abwehr) ngay giữa Berlin - hiện đang kiểm soát một hệ thống liên lạc độc lập cho các đơn vị dự bị trên khắp nước Đức. Nhóm âm mưu Oster đã cung cấp bom do Anh sản xuất cho nhóm người của Henning von Tresckow để lên kế hoạch “hành thich”' Hitler trong năm 1943. 

Năm 1943, những nỗ lực giải cứu người Do Thái của nhóm Abwehr đã bị Gestapo bóc trần, còn Hans Oster thì bị cách chức. Hans von Dohnanyi (người đã tham gia vào Abwehr chỉ một thời gian ngắn trước chiến tranh) và Dietrich Bonhoeffer (nhà thần học Lutheran và là anh rể của Dohnanyi) đã giúp 14 người Do Thái trốn sang Thuỵ Sỹ khi đóng giả là nhân viên của Abwehr trong Chiến dịch U-7. Dohnanyi và Bonhoeffer đều bị bắt giữ với cáo buộc vi phạm luật hối đoái trong số những cáo buộc khác có liên quan đến những công ty môi giới bảo hiểm như Jauch & Hubener; đại uý Walter Jauch của gia đình Jauch (người anh em họ đầu tiên của Hans Oster) và Otto Hubener sau đó bị xử giảo. Bản thân Hans Oster bị quản thúc tại gia. 

Vì sao âm mưu ám sát Hitler bị bại lộ? -0
Wilhelm Canaris, thủ lĩnh Cơ quan tình báo Abwehr.

Trên giàn xử giảo

Thiếu tướng Hans Oster bị bắt giữ chỉ 1 ngày sau âm muu ám sát Hitler bị thất bại (âm mưu 20 tháng 7). Trước đó, ngày 4/4/1945, một số cuốn nhật ký của Đô đốc Canaris bị phát giác và trong cơn giận dữ Hitler đã hạ lệnh xử tử tất cả những kẻ đồng mưu hiện tại và trước đây (Hans Oster nằm trong đám người này). Ngày 8/4/1945, Hans Oster, Dietrich Bonhoeffer, Wilhelm Canaris, và những thành viên kháng ĐQX khác đã bị kết án tử hình tại một toà án quân sự của SS được chủ trì bởi thẩm phán kiêm luật sư người Đức, Otto Thorbeck. Cả 3 đều bị xử giảo (treo cổ) vào rạng sáng hôm sau trong trại tập trung Flossenburg.

Flossenburg là một trại tập trung của ĐQX được xây dựng vào tháng 5/1938 bởi Văn phòng Kinh tế và Hành chính chính của SS. Không giống như các trại tập trung khác, trại này nằm ở một khu vực hẻo lánh thuộc dãy núi Fichtel của Bavaria, giáp với thị trấn Flossenburg và gần biên giới Đức với Tiệp Khắc. Mục đích ban đầu của trại là khai thác lao động cưỡng bức của tù nhân để sản xuất đá granit cho các công trình kiến trúc của Đức Quốc xã.

Năm 1943, phần lớn tù nhân chuyển sang sản xuất máy bay chiến đấu Messerschmitt Bf 109 và các loại vũ khí khác phục vụ cho nỗ lực chiến tranh của Đức. Ban đầu, trại được thiết kế dành cho các tù nhân "tội phạm" và "phi xã hội" của Đức, số lượng tù nhân trong trại tăng lên với các tù chính trị từ bên ngoài nước Đức và sau khi Đức xâm lược Liên Xô, có cả tù chiến tranh Liên Xô. Trại cũng phát triển một hệ thống trại phụ rộng lớn, cuối cùng giam giữ nhiều tù nhân hơn cả trại chính.

Trước khi được Quân đội Hoa Kỳ giải phóng vào tháng 4/1945 đã có khoảng 100000. tù nhân bị giam giữ tại Flossenburg và các trại phụ. Khoảng 30000. người đã chết vì suy dinh dưỡng, làm việc quá sức, bị hành quyết, hoặc trong các cuộc hành quân tử thần. Một số người chịu trách nhiệm cho những cái chết này, bao gồm quản lý, lính canh, và những người khác, đã bị xét xử và kết án trong phiên toà xét xử Flossenburg. Trại giam đã được tái sử dụng cho các mục đích khác trước khi một đài tưởng niệm và bảo tàng được khánh thành vào năm 2007.

Ông Fabian von Schlabrendorff, một trong số vài thành viên kháng Đức sống sót sau chiến tranh đã mô tả rằng “Hans Oster là người mà ý Chúa muốn phải làm như vậy, tâm trí minh mẫn và thanh thản, không hãi sợ nguy hiem”^?. Hans Oster có 2 người con trai, một trong số họ là Oberleutnant đã chiến đấu ở Stalingrad. Ông đã tự sát bằng cách trùm chăn (mền) lên đầu mình và nã đạn lúc gần cuối cuộc vây hãm. 

Văn Chương (Tổng hợp)
.
.