Vụ phản bội lớn nhất trong lịch sử Hải quân Mỹ: Bị lộ từ đằng sau (bài cuối)
Vận may trong công việc của John Walker càng lên cao thì về phía gia đình ông càng trở nên rắc rối. Đôi khi ông dành cả đêm tại BOQ thay vì ở nhà cùng với gia đình mình. Vợ ông, bà Barbara Walker bắt đầu nghi ngờ chồng mình có những cuộc phiêu lưu tình ái và tìm cách kiểm soát mọi thứ của ông.
Những vấn đề tài chính gia đình tưởng chừng không thể giải quyết được bỗng được giải quyết một cách ổn thỏa. Walker nói rằng nguồn tài chính của ông có được là nhờ những cuộc “làm việc ban đêm”, nhưng không thuyết phục được bà Barbara. Và sau đó, trong vòng một năm kể từ khi chồng trở thành điệp viên, bà tìm thấy một túi hàng tạp hóa, trong đó ông Walker đã giấu một đống tài liệu mật. Đối mặt với việc bị phát hiện, Walker thừa nhận việc mình làm gián điệp và tìm cách lôi kéo bà Barbara đi cùng. Ngay từ đầu, KGB đã cảnh báo Walker không bao giờ được tiết lộ bất cứ điều gì cho vợ hoặc các thành viên khác trong gia đình. Mặc dù bà Barbara không có hành động gì ngay lập tức, nhưng mầm mống sự sụp đổ của John Walker đã được gieo.
Ở Bờ Tây và trong khi được giao nhiệm vụ trên con tàu Niagara Falls (AFS-3), hành trình “thả hàng” cho KGB của Walker trở nên khó khăn hơn nhiều. Một vụ “thả hàng” năm 1972 yêu cầu một chuyến bay từ Việt Nam đến Mỹ, một chuyến ghé thăm nhà ngắn ngủi, và sau đó lên tàu trở lại Hồng Kông. Khi Walker quay trở lại Norfolk để làm việc tại trụ sở của Lực lượng Đổ bộ Atlantic vào mùa hè năm 1974, các vấn đề đã được khắc phục, nhưng việc chuyển giao tài liệu mật không như ý muốn của Walker là luôn di chuyển và tránh xa Barbara.
Giải pháp của Walker là rời khỏi Hải quân. Walker tin rằng sau khi rút khỏi Hải quân ông có thể làm việc hiệu quả hơn với tư cách là người quản lý mạng lưới điệp viên, cung cấp cho Liên Xô thông tin do những người khác thu thập. Vào thời điểm ông rời quân ngũ, Walker đã bắt đầu công việc điều tra tư nhân. Ông nhận một công việc tại công ty Wackenhut và sau đó mở công ty riêng. Ông cũng đã ly hôn bà Barbara, nhưng ác thay việc này lại xảy ra sau khi ông lần thứ hai đưa bà đến một trong những địa điểm giao dịch tình báo của mình.
Xây dựng mạng lưới tình báo
Mạng lưới tình báo của John Walker bắt đầu với một người bạn cũ trong Hải quân, Thượng sĩ Jerry Whitworth, cũng là một sĩ quan truyền thanh vô tuyến, người đã rời quân ngũ nhưng tái nhập ngũ vào mùa thu năm 1974. Sau đó, ông tình nguyện làm việc tại Diego Garcia, nơi ông cũng từng đồn trú trước đây. Whitworth bắt đầu làm điệp viên vào mùa hè năm 1975, khi Walker nghỉ hưu. Người điệp viên già dặn kinh nghiệm đã chuyển tiếp nhiều gói tin tình báo của Whitworth cho KGB. Đây có thể là kết quả tốt nhất Whitworth thực hiện so với Walker từ khi ông phục vụ trên tàu Niagara Falls. Khi con tàu “nghỉ hưu”, Whitworth được bổ nhiệm về Trung tâm Thông tin Hải quân Alameda. Tuy nhiên, ở đó ông nhận thấy việc chụp ảnh tài liệu khó khăn hơn. Walker đã mua một chiếc xe tải (sau đó được Liên Xô hoàn tiền lại) để Whitworth có thể ngồi trong đó thực hiện công việc quay phim khi xe đậu trong một bãi đậu xe gần nơi làm việc.
Với việc Walker được tự do đi lại sau khi nghỉ hưu và Whitworth giao hàng, người điệp viên đã đề nghị với Liên Xô về việc cung cấp thông tin tình báo thường xuyên hơn. Một lần nữa KGB đặc biệt từ chối. KGB đã mời Walker đến một cuộc gặp mặt trực tiếp ở Casablanca vào mùa hè năm 1977, tại đó người liên lạc bên phía Liên Xô không chấp nhận việc ông tuyển dụng điệp viên mới. Walker đồng ý tham gia các cuộc họp bí mật hàng năm ở Vienna và không mời thêm bất kỳ điệp viên nào. Sau này ông khai với cơ quan phản gián Mỹ rằng trong một cuộc chạm trán trên vỉa hè ở thủ đô của Áo, ông đã bị một nhóm người bí mật bắt đi và sau đó bị thẩm vấn, trong đó có Chủ tịch KGB Yuri Andropov.
Vào cuối năm 1980, chuyến viếng thăm Alameda của một nhóm của Cơ quan Điều tra Hải quân (NIS) để giải quyết một vụ án hiếp dâm đã khiến Whitworth sợ hãi. Ông ta không chỉ trở nên hám gái mà còn hám tiền, cố tình phá hủy hàng loạt bức ảnh của mình nhằm buộc KGB phải trả gấp đôi. Whitworth mang theo một chồng tài liệu cao ngất ngưởng sau khi rời nhiệm vụ trên tàu Enterprise (CVN-65) với ý định tiếp tục cung cấp luồng thông tin tuyệt mật của mình sau khi rời Hải quân vào tháng 10-1983. Trong số các tài liệu, Liên Xô thu được từ ông này là thông tin điện tín cùng các bức ảnh và một số danh sách chính của hệ thống mật mã KW-7, KY-8, KG-14, KWR-37 và KL-47. Các danh sách mật mã này bao gồm cả thiết kế cho các hệ thống điện thoại an toàn mới nhất của Mỹ.
Nhận thức được việc Whitworth ngày càng miễn cưỡng làm gián điệp bất chấp những lời hứa của Walker với KGB, vào năm 1983 ông đã chiêu dụ con trai mình là Michael, một lính mới lên tàu Nimitz (CVN-68), làm việc trong bộ phận quản lý hành chính của con tàu. (Năm 1979, ông cũng cố gắng lôi kéo con gái út của mình, Laura Walker Snyder, nhưng bất thành.) Michael đã sao chép hơn 1.500 tài liệu cho KGB, bao gồm cả tài liệu về hệ thống vũ khí, kiểm soát vũ khí hạt nhân, quy trình chỉ huy, phương pháp nhận dạng và tàng hình, và danh sách mục tiêu dự phòng.
Do nợ tiền John Walker nên anh trai ông là Arthur L. Walker, một trung úy hải quân đã nghỉ hưu, làm việc cho một nhà thầu quốc phòng, cũng bắt đầu tham gia mạng lưới. Ông đã lập hồ sơ sửa chữa trên một số tàu chiến nhất định cùng với sách hướng dẫn kiểm soát thiệt hại cho một chiếc khác. Cách tiếp cận gián điệp của “gia đình điệp viên” Walker là một điều nguy hiểm có thể dẫn đến việc vi phạm các nguyên tắc an ninh trong ngành tình báo, vì một khi bất kỳ thành viên nào trong gia đình bị tình nghi đều có thể dẫn đến việc thẩm vấn người khác, và ông John Walker hoàn toàn hiểu rằng bà Barbara đang là “quả bom” nguy hiểm chờ “phát nổ”.
Dấu chấm hết cho sự nghiệp tình báo của John Walker
Cho đến nay, các nhà phản gián FBI của Mỹ vẫn chưa thôi thắc mắc việc làm thế nào mà vụ gián điệp của ông John Walker có thể diễn ra trong 18 năm nếu cơ quan chức năng không phát hiện ra vụ rò rỉ. Không có dấu hiệu nào để biết đến mạng lưới gián điệp của ông John Walker, chứ nói gì đến việc phá nó. Chuyên gia săn gián điệp của FBI ở Norfolk là Robert W. Hunter tuyên bố ông biết có một “gián điệp bậc thầy khó bắt” đang hoạt động, nhưng không có sự chú ý nào tập trung vào Walker cho đến khi ông bị lộ.
Hoạt động bí mật của John Walker cuối cùng đã bị phá vỡ vào năm 1984 và các vết nứt mở ra ở mọi đường nối. Tháng 5 năm đó, Jerry Whitworth, mặc cảm tội lỗi hoặc lo lắng để thực hiện một thỏa thuận, đã gửi cho FBI ở San Francisco một bức thư nặc danh lấy tên “RUS” và đề nghị sẽ tiết lộ “những bí mật đen tối”. Tuy nhiên, Whitworth không thể tự mình bám theo giao dịch và các đặc vụ FBI có liên quan cũng không thể lần ra manh mối ông ta. Cuối cùng, các chữ cái RUS sẽ được kết nối với John Walker, nhưng chỉ sau khi có được bằng chứng thực tế.
Sau đó, chính bà Barbara Walker đã tố cáo chồng cũ với FBI. Vào tháng 11, sau khi con gái Laura thuyết phục bà nói chuyện với nhà chức trách, Barbara đã thông báo với Văn phòng FBI ở Boston rằng bà có “thông tin quan trọng” cần tiết lộ và vào ngày 29-11, một đặc vụ đến từ Hyannis đã thẩm vấn bà. Vợ cũ của John Walker nói với đặc vụ này về sự nghi ngờ ngày càng tăng của bà đối với chồng mình từ những năm 1960, việc ông tham gia làm gián điệp và việc bà đã từng đi cùng ông John Walker đến những điểm “thả hàng” gần Washington. Bà mô tả các hành động trong những lần giao hàng đó kết hợp với các kỹ thuật của KGB.
Tuy nhiên, người đại diện FBI lưu ý trong báo cáo của mình rằng Barbara dường như đã uống rượu khi bà ta chào ông ở cửa nhà và trong cuộc thẩm vấn, bà ta đã uống một ly vodka lớn. Bà ta cũng lảng tránh khi được hỏi tại sao không báo cáo vụ gián điệp sớm hơn. Người đặc vụ phỏng đoán rằng những cáo buộc của bà ta có thể là do bà ta uống quá say và có tình cảm xấu với chồng cũ, do đó cho rằng thông tin của bà ta là không cần theo dõi và gửi báo cáo đến Boston để nộp lên trên.
Một tháng sau, một giám sát viên FBI thực hiện kiểm tra định kỳ hàng quý đối với các hồ sơ lưu kho đã chú ý đến báo cáo về bà Barbara Walker và chuyển nó đến văn phòng FBI ở Norfolk vì vụ gián điệp được cho là tập trung ở đó. Joseph R. Wolfinger, đặc vụ phụ trách tại Norfolk, đã được Tổng hành dinh đồng ý cho mở một cuộc điều tra. Vào ngày 25-2, ông đã giao vụ việc cho Robert Hunter, người đã chuyển báo cáo của Boston cho ông.
Sau đó, các mảnh ghép đã lần lượt được ráp vào đúng vị trí. Laura Walker Snyder đã được thẩm vấn về việc cha cô đã từng nỗ lực tuyển mộ cô và thêm thông tin chi tiết vào câu chuyện của mẹ cô, mặc dù cả Laura và Barbara đều được xem là có vấn đề cá nhân khiến họ không phải là nhân chứng đáng tin cậy. Vào đầu tháng 3, Tổng hành dinh FBI cho phép một cuộc điều tra hiện trường đầy đủ, mang mật danh là Windflyer. Cơ quan Điều tra Hải quân (NIS) cũng đã bắt đầu vào cuộc kể từ khi Michael Walker còn là một thủy thủ tại ngũ. Laura Snyder đã gọi điện thoại cho cha cô theo lệnh của FBI, và FBI đã ghi lại cuộc trò chuyện trong đó ông gợi ý về việc cô gia nhập quân đội hoặc CIA. FBI đã nghe trộm điện thoại của Walker và NIS đã phỏng vấn hàng trăm người từng quen biết ông và nhận được lời thú nhận từ Michael trên tàu Nimitz.
Dấu chấm hết cho John Walker cuối cùng cũng đến vào ngày 20-5, ông bị FBI bắt giữ sau khi tịch thu 127 tài liệu mật từ tàu Nimitz mà ông đã bỏ lại tại điểm “thả hàng”. Khám xét nơi ở của John Walker, FBI đã thu được rất nhiều bằng chứng về mạng lưới gián điệp của ông, bao gồm hồ sơ về các khoản thanh toán cho “D” (Jerry Whitworth), người đã tự nộp mình cho nhà chức trách vào ngày 3-6. Arthur Walker cũng bị bắt.
Để được giảm bớt tội danh, John Walker đã thỏa thuận để thảo luận chi tiết về hành vi gián điệp của mình và nhận tội. Michael cũng đã nhận tội. Arthur Walker đã bị xét xử vào tháng 8 và bị kết tội. Whitworth ra trước tòa vào mùa xuân năm 1986. Tại phiên tòa, Whitworth bị kết tội, bị phạt 410.000 USD và lĩnh 365 năm tù. Về phần nhà Walker, Arthur bị kết án ba án chung thân cộng với khoản tiền phạt 250.000 đô la, John nhận án chung thân và Michael 25 năm. Vào tháng 2-2000, Michael Walker được trả tự do vì có hành vi tốt. John và Arthur Walker sẽ đủ điều kiện để được ân xá vào năm 2015, nhưng John Walker đã qua đời vào ngày 28-8-2014, còn Arthur Walker qua đời vào ngày 11-8-2014, vài tháng trước khi được ân xá.