Chuyện cổ tích về sự ra đời của nền điện ảnh Bưng Biền - Đồng Tháp

Thứ Ba, 17/10/2017, 08:45
Ngày nay phương tiện nghe - nhìn đang thống soái các lĩnh vực truyền thông nghệ thuật, lại được hỗ trợ bởi sự bùng nổ của cuộc cách mạng kỹ thuật số, khiến đông đảo bạn trẻ chắc hẳn sẽ ngạc nhiên khi nghe chúng ta kể lại câu chuyện cổ tích có một không hai về sự ra đời của nền điện ảnh Bưng Biền - Đồng Tháp…


1. Lùi về quá khứ 70 năm trước, vào năm 1947, tại Sài Gòn, trai thanh gái lịch chắc không xa lạ gì với nhiếp ảnh, phim ảnh. Nhưng cái quyền thưởng ngoạn ấy thuộc đẳng cấp sang giàu. Còn đại bộ phận người nông dân ở vùng sông nước miền Tây, quanh năm vất vả kiếm sống bằng hạt lúa, con cá hẳn họ chưa bao giờ biết tới có chuyện hình người in trên miếng giấy mà giống y chang; càng không hình dung nổi có gió thổi qua rặng cây, con đò lướt đi trên kênh rạch, có người “động đậy”… trên một tấm vải căng rộng.

Có trở lại từ phần gốc gác này mới thấy hết được ý nghĩa lớn lao của việc chính quyền kháng chiến non trẻ tại Nam Bộ đã sớm biết mang nhiếp ảnh, điện ảnh về với những người cầm súng và đông đảo quần chúng cách mạng.

Trong những trang hồi ký của mình, đạo diễn Mai Lộc ghi lại: “Chính ủy Nguyễn Văn Vịnh và Tư Lệnh Trần Văn Trà rất yêu văn nghệ. Chính hai đồng chí ấy đã nhiệt tình ủng hộ việc thành lập Điện ảnh khu 8 và sau này luôn trực tiếp chỉ thị giúp đỡ mọi hoạt động làm phim, chiếu phim”.

Đạo diễn Khương Mễ cũng kể nhiều chuyện cảm động về tầm nhìn xa, trông rộng của đồng chí Lê Duẩn, lúc đó là người lãnh đạo Trung ương Cục đã nhiệt tình ủng hộ việc thành lập tổ Điện ảnh khu 8. Đồng chí Phạm Văn Bạch, Chủ tịch Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ quyết trích một số tiền lớn tới 50.000 đồng giúp Điện ảnh khu 8 mua máy quay, phim, thuốc in tráng phim…

Nhà quay phim Khương Mễ thời kháng chiến chống Pháp.

Những quyết định như vậy - xin nhắc lại, đã diễn ra vào năm 1947 - cách nay đã tròn 70 năm. Kháng chiến chống Pháp vừa mới bắt đầu. Chiến sỹ Tiểu đoàn 307 anh hùng vẫn chỉ được trang bị súng trường là chủ yếu, vẫn ngủ nóp, chống lại những cơn sốt rét bằng viên ký ninh hòa vào một bát nước chia nhau uống. Bác sỹ Phạm Ngọc Thạch còn đang mày mò thể nghiệm dùng nhau bà đẻ chế biến thành chất bổ philatop cấy vào bắp chân, bắp tay anh bộ đội, để tiếp thêm sức lực cho các anh…

Trong hoàn cảnh khó khăn, nhiều thử thách ấy, cảm động biết bao khi những người lãnh đạo cuộc kháng chiến đã thấu hiểu, nhìn ra sức mạnh tuyên truyền, cổ súy sâu rộng, lan tỏa của chính điện ảnh – một ngành nghệ thuật vẫn còn như “một trò chơi sang” bó hẹp phạm vi hoạt động của mình ở chốn thành thị.

Cũng ngay từ những ngày xa xưa đó điện ảnh đã được nâng tầm thành món ăn tinh thần - văn hóa không thể thiếu đối với chiến sỹ, đồng bào. Cũng cần thiết, cũng cấp bách như cơm gạo, súng đạn, thuốc men trong cuộc chiến đấu chung. Chính với việc ra đời của Điện ảnh khu 8 - cơ sở làm phim đầu tiên trong cả nước - điều này không chỉ chứng tỏ tầm nhìn xa trông rộng mà còn là sự thấu hiểu văn hóa, nghệ thuật của những bộ óc mang tầm chiến lược

2.Nói tới sự ra đời và hình thành của Điện ảnh khu 8, cũng phải nói ngay tới tính lãng mạn của những ai dám nghĩ dám làm, trong đầu dào dạt những ước mơ quyết chí chinh phục một ngành nghệ thuật còn khá non trẻ, nhưng đầy sức hấp dẫn. Không phải vô cớ, vào năm 1995 trong lễ  kỷ niệm 100 năm ngày ra đời bộ môn nghệ thuật thứ 7, tại Paris - thủ đô nước Pháp, nhiều nhà điện ảnh thế giới khi biết tới hoạt động của Điện ảnh khu 8, khi đã tận mắt xem những bộ phim “Trận Mộc Hóa, “Trận Giồng Trôm”, “Chiến dịch Cầu Kè - Trà Vinh”, “Công binh xưởng trong rừng”… đã đồng thanh nhất trí gọi Điện ảnh khu 8 là “Điện ảnh Luymier – Bưng Biền”.

Tức các nhà điện ảnh thế giới đã đánh giá cao sự ra đời của một nền điện ảnh ngay trong khói lửa chiến tranh, hệt như khám phá ra điện ảnh lần đầu của hai anh em ông tổ điện ảnh Luymier. Làm sao có thể hình dung nổi, giữa kênh rạch nước nửa ngọt nửa mặn, với những con ghe nay đây mai đó, không điện, không nước sạch mà dám nghĩ tới việc in tráng phim.

Thiếu phim sống, thiếu thuốc in tráng, thiếu nhiều phương tiện khác nữa thì vượt qua đồn bốt địch băng vào Sài Gòn mua sắm, dù mỗi chuyến đi có thể phải đổi bằng chính tính mạng của mình. Làm sao mà không ngạc nhiên ngay ở thời kỳ đó Điện ảnh khu 8 đã dám thể nghiệm việc làm phim truyện, để lưu lại đến hôm nay những thước phim mô tả một tên lính Pháp bị nhốt vào dưới đáy của một chiếc lọ (phim “Đáng đời đế quốc”).

Và đẹp, và thơ mộng, và lung linh, huyền ảo nữa chứ. Đó là khung cảnh những buổi chiếu phim của Điện ảnh khu 8 vào những năm tháng ấy. Mỗi tối chiếu phim là một ngày hội. Người ta đi bộ, chèo ghe chèo thuyền cả 4, 5 tiếng đồng hồ để được xem phim. Phim được chiếu cho bộ đội xem ngay trước giờ xuất kích đánh đồn. Phim được chiếu ngay tại làng xóm vừa bị máy bay địch oanh tạc…

Ông Phan Văn Trai, người phụ trách máy chiếu phim, làm luôn cả việc thuyết minh phim của Điện ảnh khu 8 nhớ lại: “Nơi đặt máy chiếu luôn luôn chất đầy nước ngọt, trái cây của bà con tới xem phim mang tặng. Những chiếc ghe từ những hòn cù lao rất xa kéo tới châu mũi vào nhau. Tiếng cười, tiếng nói rổn rảng. Và khi tấm vải chiếu phim trắng toát được căng lên giữa những cây tràm, cây đước, mọi tiếng lao xao, cười đùa bỗng lặng ngắt. Tựa như bà con cô bác đang chờ đợi một phép màu nhiệm gì sẽ diễn ra từ tấm vải trắng kia. Sau buổi chiếu, theo ghe theo thuyền về là  những câu chuyện bàn tán sôi nổi, râm ran không dứt của bà con về những gì đã thấy trên phim”.

Những bộ phim đầu tiên mang chất phóng sự - tài liệu được kể tên trong cuốn Lịch sử điện ảnh cách mạng Việt Nam hiện nay như: “Điều chế thuốc Philatop”, “Công binh xưởng trong rừng”… mỗi phim vẻn vẹn lướt qua màn ảnh nhiều lắm là 3 tới 5 phút. Nhưng vì sao những sản phẩm điện ảnh sơ khai đó lại có sức cuốn hút, hấp dẫn, tạo nên những hiệu quả cảm xúc và nhận thức trong lòng chiến sỹ, đồng bào mạnh mẽ, đầy sức thuyết phục đến như vậy?

Làm phim trong rừng.

Câu trả lời không khó tìm. Bởi điện ảnh cách mạng tiếp cận với người xem trước hết và chủ yếu bằng thể loại phim “người thật - việc thật”. Còn gì cảm động hơn khi bà con cô bác xem phim vỗ tay, reo to thích thú khi nhận ra thằng Ba, thằng Tư lính Tiểu đoàn 307 vừa đóng quân ở làng mình, xóm mình tháng trước, lúc này trên màn ảnh đang xông lên bất chấp hiểm nguy trong trận đánh chặn một đoàn xe vận tải của Pháp.

Làm sao không vui, không phấn khởi được khi nhận ra dì Năm, dì Bảy làng mình, xóm mình đang gánh cơm, gánh những trái mít, trái xoài đi tiếp tế cho các đơn vị bộ đội; những Út Năm, Út Sáu với chiếc túi cứu thương bên mình, băng băng theo bén gót người chiến sỹ sẵn sàng băng bó vết thương hoặc dìu đỡ, cáng tải các anh về những trạm cấp cứu tiền phương.

Làm sao không phấn chấn, hoan hỉ được khi tận mắt chứng kiến những tên lính “mắt xanh, mũi lõ” mới mấy hôm trước từ đồn bót hung hăng mở cuộc càn vào làng xóm, hiếp đáp người, thiêu trụi nhà cửa, vườn tược, nay đang cúi gầm mặt lê gót bước đi trước mũi súng của chiến sỹ ta..

Thể loại phim phóng sự - tài liệu của điện ảnh cách mạng Việt Nam gặt hái những thành công, gây tiếng vang ra ngoài biên giới trong cả hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ chính là bắt nguồn từ thứ phim “người thật - việc thật”  mà Điện ảnh khu 8 đã đặt những viên gạch đầu tiên.

Đáng tiếc rằng, bước qua cơ chế thị trường phim “người thật - việc thật”-  tức thể loại phim phóng sự - tài liệu không còn giữ được vị trí và tác dụng như xưa, cho dù ngày hôm nay điều đáng biểu dương, đề cao và cái đáng phê phán, lên án ngày càng đan xen nhau một cách tinh vi, không dễ gì nhận biết.

3. Có một đặc điểm, cũng là một truyền thống vẻ vang nữa của Điện ảnh Khu 8 còn ít được nhắc tới: Điện ảnh khu 8 là một đơn vị làm phim trực thuộc Phòng Chính trị, Bộ Tư lệnh khu 8, còn “những nhà điện ảnh thoạt kỳ thủy” như các ông Mai Lộc, Khương Mễ, Vũ Sơn, Lý Cương, An Sơn, Phan Trọng Quỳ, Vũ Ba… chính là những người lính.

Họ được bà con cô bác thương yêu như ruột rà. Họ quá rành rõ, quen thuộc với kham khổ, với trận mạc. Bám sát diễn tiến trận đánh, bén gót đồng đội trong thử thách tử sinh - đó như là điều tự nhiên đối với những người làm phim khu 8. Làm phim để chiếu cho bộ đội và đồng bào xem – đó cũng là một điều tự nhiên nữa. Những gì diễn ra trên màn ảnh phải chân thật, phải biểu dương được cái cao đẹp, cái anh hùng để người xem phim làm theo, noi theo…

Những điều tưởng đâu như tự thân, vốn có ấy, hình thành trong hoạt động làm phim của Điện ảnh khu 8 chính là đã tạo nên diện mạo tinh thần, những chuẩn mực thiêng liêng, những quy chuẩn phải tuân thủ trong suốt mấy chục năm sau này của nền điện ảnh cách mạng Việt Nam nói riêng, của nền văn hóa – văn nghệ Việt Nam nói chung. Phim ảnh phải làm được cả 3 chức năng song hành: nhận thức -giáo dục - thẩm mỹ.

Phim ảnh phải trong sạch, lành mạnh, phải hướng tới những giá trị nhân văn - nhân bản. Phim ảnh phải bắt rễ vào cội nguồn những giá trị văn hóa, đạo lý ngàn đời của cha ông. Và người làm phim luôn luôn phải bám sát đời sống, bám sát trận mạc; khi xung trận phải can trường, dũng cảm, ngang tầm đứng với người chiến sỹ cầm súng.

Cuối tháng 11 tới, tại Đà Nẵng, Liên hoan phim Việt Nam sẽ diễn ra. Trong chương trình phim dự thi giành giải - lần đầu tiên - không có phim nào dựa vào ngân sách của Nhà nước. Xã hội hóa việc sản xuất phim là yêu cầu không tránh khỏi.

Nhưng liệu rằng chúng ta có buông lơi điện ảnh không đây; có xem nhẹ sức mạnh riêng, mối tác động riêng của phương tiện nghệ thuật này, trong khi chủ trương “cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa” ngày càng chứng minh tầm quan trọng, sự cấp thiết của mình trong lĩnh vực tinh thần - văn hóa.

Tô Hoàng
.
.