Mộc bản triều Nguyễn tại “Hoàng triều cương thổ”

Thứ Ba, 20/09/2011, 14:40

Những mộc bản triều Nguyễn hiện đang lưu trữ tại  Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV (đóng tại Đà Lạt, Lâm Đồng) luôn thu hút sự chú ý của nhiều người bởi những giá trị lịch sử và khoa học của nó. Kho tư liệu đã được UNESCO công nhận là di sản tư liệu thuộc danh mục chương trình ký ức thế giới.

Kho tư liệu quý

Gần đây, trong phạm vi cả nước và quốc tế, hàng loạt các giá trị khoa học của kho tư liệu quý giá nói trên đã được công bố. Trong đó, thông tin về việc lần đầu tiên tìm thấy mộc bản đặt tên "Hà Nội" tại kho tư liệu đang lưu trữ ở Đà Lạt đã gây sự chú ý đặc biệt của rất nhiều người. Đặc biệt, theo thông tin vừa công bố của Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, từ những tấm mộc bản này, vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thêm một lần nữa được khẳng định.

Cử nhân Lê Khắc Niên - một trong số ít người sớm được tiếp cận kho tư liệu mộc bản tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV - giải thích: "Số mộc bản này là những bản gỗ khắc ngược chữ Hán và chữ Nôm dùng để in sách, tài liệu… được sử dụng khá phổ biến dưới triều Nguyễn. Vào năm 1960, nhiều tài liệu Hán Nôm và kho mộc bản quý hiếm này được chuyển từ cố đô Huế vào thủ phủ Hoàng triều cương thổ Đà Lạt".

Sau một thời gian trùng tu, khu biệt điện Trần Lệ Xuân ngày trước đã trở thành Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV, gồm 3 biệt thự Hồng Ngọc, Bạch Ngọc và Lan Ngọc - nơi trước đây làm nơi nghỉ ngơi, giải trí của gia đình Trần Lệ Xuân và các tướng tá… Hiện tại, hệ thống trưng bày ở đây được chia thành hai mảng chuyên đề lớn: Lưu trữ Việt Nam từ năm 1962 đến nay (lịch sử ngành lưu trữ Việt Nam) và miền Trung - Tây Nguyên trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Mộc bản triều Nguyễn là mảng lưu trữ được xem là rất đặc sắc nằm trong chuyên đề thứ hai. Theo cử nhân Lê Khắc Niên thì tài liệu Hán Nôm thuộc triều Nguyễn hiện còn lưu giữ ở Việt Nam bao gồm nhiều dạng, như: châu bản, mộc bản, địa bạ, sách chính văn, chính sử, địa chí, thực lục…

Chủ quyền Hoàng Sa

Trong kho tàng mộc bản vô giá này, bản dịch ở quyển 165 “Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ” - có ghi rõ: "Cương giới mặt biển nước ta có xứ Hoàng Sa rất là hiểm yếu. Trước kia đã phái vẽ bản đồ nhưng do hình thể nó xa rộng nên mới chỉ vẽ được một nơi nhưng cũng chưa rõ ràng. Hằng năm nên phái người đi dò xét cho khắp để thuộc đường biển. Xin từ năm nay trở về sau, mỗi khi đến hạ tuần tháng giêng, chọn phái biền binh thủy quân và vệ giám thành đáp một chiếc thuyền ô, nhằm thượng tuần tháng hai thì đến Quảng Ngãi, yêu cầu hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định thuê bốn chiếc thuyền của dân, hướng dẫn đi ra đúng xứ Hoàng Sa. Không cứ là đảo nào, hòn nào, bãi cát nào, khi thuyền đi đến, cũng xem xét xứ ấy chiều dài, chiều ngang, chiều cao, chiều rộng, chu vi và nước biển bốn bên xung quanh nông hay sâu, có bãi ngầm, đá ngầm hay không, hình thế hiểm trở, bình dị thế nào, phải tường tất đo đạc, vẽ thành bản đồ…".

Bản in Mộc bản triều Nguyễn.
Bản sao Mộc bản triều Nguyễn.

Trong "Đại Nam thực lục chính biên đệ nhị kỷ", quyển 154 còn nhắc đến chuyện "Dựng đền thờ thần ở đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Quảng Ngãi", và chép: "Hoàng Sa ở hải phận Quảng Ngãi, có một chỗ nối cồn cát trắng, cây cối xanh um, giữa cồn cát có giếng, phía tây nam có miếu cổ, có tấm bài khắc bốn chữ "Vạn lý ba bình" (Vạn dặm sóng yên). Cồn bạch sa (cát trắng) chu vi 1.070 trượng, tên cũ là núi Phật Tự, bờ đông, tây, nam đều có đá san hô, sừng sững nổi lên, chu vi 340 trượng, cao một trượng ba thước, ngang với cồn cát gọi là Bàn Than thạch. Năm ngoái, vua toan dựng miếu lập bia ở chỗ ấy, bỗng vì sóng gió không làm được. Đến đây mới sai cai đội thủy quân là Phạm Văn Nguyên đem lính thợ giám thành cùng phu thuyền hai tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định chuyên chở vật liệu đến dựng miếu (cách tòa miếu cổ bảy trượng). Bên tả miếu dựng bia đá, phía trước miếu xây bình phong. Mười ngày làm xong rồi về…".

Dẫn cho tôi thấy về vấn đề chủ quyền quần đảo Hoàng Sa được thể hiện trong "Đại Nam thực lục" mà kho mộc bản của triều Nguyễn hiện đang còn lưu giữ tại Đà Lạt đã nhắc đến, Lê Khắc Niên giải thích thêm: "Kho tài liệu mộc bản này có niên đại trên 200 năm. Trong đó, "Đại Nam thực lục" là bộ sách ghi chép lịch sử Việt Nam thời Nguyễn từ chúa Nguyễn Hoàng đến Vua Khải Định. Đây là bộ sách có tính chân thực cao là điều mà từ trước đến nay các nhà nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước đã khẳng định".

Chắc  chắn, trước một vấn đề cực kỳ hệ trọng như thế này, các nhà khoa học chuyên ngành không thể không vào cuộc. Kho tàng mộc bản triều Nguyễn sau khi được ủy ban Tư vấn quốc tế thuộc Chương trình Ký ức thế giới của UNESCO công nhận là di sản tư liệu đã được xếp vào danh mục Chương trình "Ký ức thế giới" (Memory of the world).

Cũng cần nói thêm là, khi làm Quốc trưởng của Chính phủ thuộc Pháp, cựu hoàng Bảo Đại  đã chọn Đà Lạt làm "Hoàng triều cương thổ". Năm 1960, toàn bộ những mộc bản ở cố đô Huế đã được chuyển vào Đà Lạt. Khi mới chuyển vào, kho tàng mộc bản được cất giữ tại Nha Ngân khố, và sau đó được chuyển đến nhà dòng Chúa Cứu thế. Tuy không thật đầy đủ nhưng những gì còn lại của kho mộc bản này vẫn chứng tỏ sự vô giá của nó: Bộ sách sử nổi tiếng "Đại Nam thực lục" được biên soạn và khắc in trong vòng 88 năm (1821 - 1909); bộ "Hoàng Việt luật lệ" (còn gọi là Bộ luật Gia Long) được Vua Gia Long cho ban hành năm 1815 được xem là một trong hai bộ luật nổi tiếng nhất của thời phong kiến Việt Nam (cùng với Bộ luật Hồng Đức thời Lê). Hai bộ này hiện đang còn lưu giữ tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia IV đều là bản gốc. Ngoài ra, trung  tâm còn lưu giữ nhiều bộ mộc  bản là những bộ sách của những bậc danh thần hoặc các "cơ quan" triều Nguyễn như các bộ thơ văn “Ngự chế thi sơ tập”, “Ngự chế văn tam tập”, “Ngự chế Việt sử tổng vịnh tập”…

Những bộ mộc bản triều Nguyễn này thật sự  đã trở thành  một "kho  báu" đối với giới khoa học và những người quan tâm đến di sản lịch sử của  nước nhà

Khắc Dũng
.
.