Dựng lại màu vương giả
Hưng thịnh rồi suy tàn, đỉnh cao rồi thất truyền, sắc màu vương giả trên pháp lam xứ Huế đăm đắm thăng trầm. Nhưng may thay, sắc màu ấy đã được đánh thức sau đằng đẵng ngủ yên, để bừng sáng trở lại những giá trị văn hóa trong các sản phẩm hiện đại mang hồn cung đình giữa cuộc sống.
Những tuyệt kỹ của sắc màu
Những sản phẩm mỹ thuật, trang trí độc đáo được làm bằng đồng hoặc hợp kim đồng, trên bề mặt được tráng một hay nhiều lớp men màu, được nung nóng nhiệt độ rất cao để tạo ra thành phẩm được gọi là pháp lam. Người Trung Hoa gọi dòng sản phẩm này là falang (pháp lang), người Nhật Bản gọi là Shipouyaki, còn người Việt Nam thì gọi là pháp lam. Trong dòng chảy của nghệ thuật trung đại và hiện đại, pháp lam vốn có xuất xứ từ Ba Tư, đi theo con đường chinh phạt của quân Nguyên - Mông từ Trung Á tới Trung Quốc từ thế kỷ 13 rồi dần dà phát triển mạnh mẽ.
Đều chịu ảnh hưởng từ pháp lam Trung Quốc, song pháp lam Nhật Bản chỉ chuyên làm theo lối “thấu minh”, còn pháp lam Huế lại trung thành với lối họa. Mỗi dòng pháp lam đều có nét đặc sắc riêng trong kỹ nghệ chế tác và phong cách thẩm mỹ, tạo ra thành phẩm mang dấu ấn độc nhất của từng quốc gia.

Các nghệ nhân pháp lam thời Nguyễn đã vận dụng pháp lam như một loại vật liệu kiến trúc trong công cuộc xây dựng các cung điện lăng tẩm ở Huế, tạo đường nét gợi lên sự ấm áp, mộc mạc trong tâm hồn. Pháp lam là một ngành nghề vô cùng đặc biệt chứa cùng lúc kỹ nghệ của nhiều ngành nghề thủ công truyền thống khác như chế tác kim loại (gò đồng, đúc đồng, kim hoàn), nghề chế tạo men (silica, thủy tinh, men gốm sứ), mỹ thuật (phương pháp vẽ), kỹ thuật nung đốt... tạo nên những sản phẩm sang trọng, quyền quý.
Dưới triều đại nhà Nguyễn, pháp lam đã đạt đến mức hưng thịnh tột đỉnh từ thời vua Gia Long, phát triển mạnh vào các triều vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức với Tượng cục pháp lam chuyên sản xuất phục vụ cho hoàng gia gồm 15 nghệ nhân. Ngoài xưởng chế tác pháp lam ở Huế, còn có xưởng pháp lam tại Ái Tử (tỉnh Quảng Trị) và Đồng Hới (tỉnh Quảng Bình). Đến thời vua Đồng Khánh (1885 - 1889) thì nghệ thuật pháp lam suy thoái, rồi ngừng phát triển và thất truyền kể từ đó.
Theo đánh giá của giới nghệ thuật, pháp lam Huế là cái gì đó viết ra bằng chữ rất khó, nhưng nhìn vào là biết ngay. Pháp lam Huế thô mộc, nhưng chứa đầy cảm xúc, khác hẳn tính cầu kỳ của pháp lam Trung Quốc hay phô bày kỹ thuật cao của Nhật Bản. Pháp lam Huế chứa đựng những màu sắc tươi sáng lộng lẫy, có cường độ mạnh, nổi bật trên các phông màu xám cố hữu của các kiến trúc cổ kính rêu phong, tạo nên những điểm xuyết sinh động, làm cho các công trình kiến trúc vốn uy nghi, trầm mặc có thêm phần tươi sáng và thanh thoát. Kỹ thuật chế tác pháp lam rất tinh xảo, điêu luyện, nhưng mỗi nơi có dấu ấn văn hóa và phương thức thể hiện sản phẩm khác nhau.
Với phương thức chế tác đặc biệt, sản phẩm pháp lam vừa quyến rũ bởi những hoa văn, họa tiết khơi gợi những câu chuyện văn hóa, điển tích cổ xưa, vừa còn có độ bền, có khả năng chống chịu cao trước những cọ xát, sự ăn mòn của môi trường và khí hậu do được chế tác theo những công thức đặc biệt về mặt cơ học, hóa, lý. Sự phức tạp và yêu cầu rất cao về kỹ thuật chế tác sản phẩm pháp lam đặt ra những thách thức vô cùng lớn đối với người thợ.

Xét về hình thức, pháp lam Huế có kích thước đồ sộ so với các sản phẩm khác trên thế giới. Những mảng màu rực rỡ tương phản nhau tạo nên ấn tượng mỹ thuật riêng chỉ có ở pháp lam Huế không lẫn vào đâu được. Pháp lam được xem là một báu vật xa xỉ, quý hiếm, sang trọng, chỉ được dùng để trang trí ở những nơi cung điện, tôn miếu uy nghiêm. Cùng với đó là các đồ gia dụng, các mảng trang trí nội thất, tự khí, được giới quan lại, quý tộc thời bấy giờ ưa chuộng.
Pháp lam Huế là một loại hình nghệ thuật trang trí đặc sắc là một di sản có giá trị đặc biệt, không thua kém bất kỳ di sản nào mà triều Nguyễn để lại cho Cố đô Huế. Hơn 30 năm rồi, những học giả, những thợ thầy “nặng nợ” với văn hóa Huế, văn hóa cổ truyền của đất nước mang niềm khao khát hồi sinh lại một ngành nghề thủ công mỹ nghệ thất truyền từ 100 năm trước. Những người làm công tác trùng tu di tích luôn đau đáu với việc để mất một ngành nghề truyền thống độc đáo, có ý nghĩa quan trọng trong trùng tu quần thể di tích cố đô Huế.
Hồi sinh màu vương giả
Đã có nhiều người đến với pháp lam Huế, như Tiến sĩ dược học Nguyễn Nhân Đức nghiên cứu kỹ nghệ này để hoàn thiện trùng tu, trang trí tại chùa Thiên Mụ, hai nghi môn tại cầu Trung Đạo, hai linh môn sân sau điện Thái Hòa. Rồi có một kỳ nhân xuất hiện, đó là Đỗ Hữu Triết. Gần 30 năm anh tìm tòi, thử nghiệm, Đỗ Hữu Triết chuyên tâm nghiên cứu, sản xuất sản phẩm pháp lam Huế giữa lúc sự khốc liệt về nhân lực, vật lực, tài chính cùng nhiều lý do khách quan khác đã khiến một số thợ, thầy tâm huyết dừng cuộc chơi. Những phương thức chế tác đặc thù cũng chính là thách thức trong công cuộc bảo tồn, phát triển ngành pháp lam Huế. Một đội ngũ thợ thầy, nghệ sĩ không chỉ giỏi nghề, sáng tạo mà có nhiều tâm huyết, mới trụ lại được với công việc pháp lam.
Ở cố đô Huế, nghệ thuật pháp lam đã thất truyền, chỉ còn lưu dấu trong nhiều hạng mục, công trình di tích và trong đồ dùng sinh hoạt, ngự dụng cổ xưa còn lưu giữ trong bảo tàng cổ vật cung đình. Kỹ thuật càng cao, công cuộc phục hồi càng khó. Nhiều trở ngại, gian nan, nhưng trở ngại lớn nhất là mẫu vật, tư liệu không nhiều, kỹ nghệ chế tác lưu truyền lại hầu như không có. Đỗ Hữu Triết phải tìm trong tài liệu cổ trong và ngoài nước, nghiên cứu nhiều về ngành nghề truyền thống, trong đó đến nghiên cứu tại làng gốm Bát Tràng, kỹ thuật nung đốt lò, những nghề phụ trợ như nghề kim hoàn, nghề đúc đồng... phải phân tích về phát quang, về X-quang và thành phần hóa, lý.

Lượm lặt những vụn vỡ của quá khứ, Đỗ Hữu Triết sau hơn 10 năm vật lộn với nghệ thuật pháp lam thất truyền, đến năm 2005, đề tài nghiên cứu pháp lam của anh thành công với việc công bố 10 mẫu pháp lam Huế thử nghiệm. Khó nhất là chế tạo được loại men pháp lam đặc thù. Là loại men bám dính tốt với kim loại, có độ nóng chảy thấp hơn kim loại, có độ co giãn tương đồng với kim loại. Tiếp đến là phải chế tạo được màu sắc men phục chế giống với bài men cổ. Điều đó đã sống dậy lên những tia hy vọng mới, niềm tin cho sự hồi sinh trở lại đối với pháp lam Huế.
Nhiều năm trời, anh Triết ra Bắc vào Nam, mời đội thợ thầy lành nghề về chạm khắc kim loại vào Huế, rồi tìm kiếm và quy tụ nhiều “anh hào” khác trong nghề thủ công truyền thống liên quan chế tác pháp lam để cùng nhau khôi phục, phát triển. Trong những thăng trầm của sự hồi sinh những sắc màu vương giả, có nhiều người dừng chân, còn anh tiếp tục theo đuổi. “Có nhiều thứ như thấm trong máu rồi, bỏ cũng không được”, anh bộc bạch.
Gần 30 năm đắm mình với pháp lam, Đỗ Hữu Triết cùng các cộng sự đã làm được nhiều điều. Sản phẩm pháp lam Huế ứng dụng trong nhiều lĩnh vực, từ trùng tu di tích, phục vụ tâm linh thờ tự, đến sản phẩm hiện đại dùng để trang trí nội thất, ngoại thất, đồ lưu niệm, trang sức với 4 loại hình chính là họa pháp lam, pháp lam chạy chỉ, pháp lam chạm khảm và kính pháp lam. Nhiều bộ sản phẩm độc bản, độc đáo khác, như bộ mâm pháp lam long phụng, bộ tranh pháp lam bốn mùa, tranh uyên ương; hay sản phẩm ứng dụng tiếp nối truyền thống và hiện đại, thích ứng với xu hướng thẩm mỹ, kỹ thuật ứng dụng đương đại.
Pháp lam Huế có những sản phẩm đã được trao giải thưởng cao, như bộ đĩa pháp lam Long Phụng đoạt giải Nhất trong Hội thi thiết kế sản phẩm thủ công mỹ nghệ năm 2020 tỉnh Thừa Thiên Huế, hay bộ tranh Kiều bằng pháp lam Huế độc bản làm “choáng ngợp” giới nghiên cứu, học giả và công chúng. Không chỉ thế, cặp đèn pháp lam chi phí khoảng 2,5 tỷ đồng, đặt ở công viên Tứ Tượng sát bên sông Hương cao 5m, đường kính 2,2m được thực hiện bởi 100 nhân công vẫn tỏa sáng hằng đêm trên đường Lê Lợi bên sông Hương đẹp bậc nhất xứ Huế.

Bên cạnh công cuộc trùng tu di tích, lăng tẩm đền đài xứ Huế. Bây giờ thì sản phẩm pháp lam không chỉ hiện diện ở chốn hoàng cung, di tích mà còn được phục vụ cho nhiều nhu cầu khác nhau của đời sống. Đỗ Hữu Triết đã sử dụng pháp lam như một chất liệu để các nghệ sĩ đương đại sáng tác, với sự kết hợp với sơn, gốm. Sự nỗ lực trên đã đưa pháp lam Huế vinh danh trong “Festival làng nghề truyền thống Huế”, ghi nhận một nghề truyền thống đã hồi sinh. Pháp lam giờ có ở khắp nơi, trong những cửa hàng, nhà sách, hiện vật trưng bày trên đường phố, trong trang trí nhà cửa, chùa chiền... và đặc biệt, là trong các lễ hội, festival Huế. Tại Bảo tàng cổ vật cung đình Huế, nơi đây lưu giữ và trưng bày gần 100 cổ vật liên quan đến pháp lam từ thời nhà Nguyễn.
Ông Nguyễn Thế Sơn, Phó Giám đốc Bảo tàng nhấn mạnh, không chỉ được trưng bày tại Bảo tàng ở Việt Nam, đồ pháp lam Huế còn có mặt tại một số bảo tàng lớn ở Châu Âu như Bảo tàng Dân tộc học Berlin (Đức), Bảo tàng Dân tộc học Muenchen (Đức), Bảo tàng Mỹ thuật Rennes (Pháp),... và cả trong những bộ sưu tập của một số nhà sưu tầm cổ ngoạn trên thế giới. Với giới nghệ thuật, pháp lam cũng thuộc hàng tuyệt phẩm. Đây là một trong những kỹ nghệ được phục dựng trọng tâm của thành phố trong nhiều năm nay.
Là nghệ nhân ngành nghề Thủ công truyền thống được nhà nước phong tặng, Đỗ Hữu Triết đã dành phần lớn tuổi xuân cho công cuộc hồi sinh pháp lam Huế với vô vàn chông gai, nên nhìn ông từng trải hơn, “nghệ sĩ” hơn so với cái tuổi 53 của mình. Giờ anh đã có trong tay “quả ngọt” là một cơ sở sản xuất, kinh doanh pháp lam mỹ nghệ với hơn 20 cộng sự, để hiện thực hóa giấc mơ “giữ lửa” và “truyền lửa”, cho pháp lam xứ Huế không bị thất truyền thêm lần nào nữa. Trong công xưởng sản xuất pháp lam Huế mỗi người một việc, họ tập trung cao độ, tỉ mẩn đứng bên lò nung, trổ từng nét vẽ hay điểm màu lên những sản phẩm lấp lánh men màu.
Ông Đặng Hữu Cơ (65 tuổi) có 13 năm thăng trầm sống với pháp lam, được xem là “cánh tay phải” của nghệ nhân Đỗ Hữu Triết bộc bạch: “Chính nghệ nhân Đỗ Hữu Triết bằng tài năng và ý chí, đã mang lại nguồn năng lượng, cảm hứng làm việc cho anh em thợ thầy khi đảm trách sứ mệnh bảo tồn và phát triển ngành pháp lam Huế”.
Pháp lam Huế tưởng đã thất truyền từ lâu, các triều đại sau chuộng nghệ thuật khảm sành sứ, nhưng nghệ thuật pháp lam đã được hồi sinh, có những người con xứ Huế vẫn giữ được “lửa nghề” dù còn lắm gian truân. Nhiều du khách trong và ngoài nước đã tới tận nơi sản xuất pháp lam và tự tay thực hiện những sản phẩm đơn giản, cũng góp phần quảng bá pháp lam Huế. Điều đó giúp phát triển nghệ thuật truyền thống đã bị mai một suốt bao lâu nay, cũng là một cách góp phần hỗ trợ cho ngành thủ công truyền thống phát triển hơn để có thể theo kịp và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong bối cảnh hiện nay.