Giữa trời có chốn kỳ duyên

Thứ Ba, 28/01/2025, 14:37

Một ngày đẹp trời, mấy anh em chúng tôi rủ nhau lên thăm Chùa Tiêu. Chùa nằm trên lưng chừng núi Tiêu (Tiêu Sơn), thuộc phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Nhà sư Thích Đàm Chính quê ở huyện Gia Lâm, tu ở chùa Tiêu từ năm 1967, cụ năm nay đã 97 tuổi, nhưng còn minh mẫn, giọng nói còn rành rẽ, đặc biệt là rất nhớ mọi chuyện. Sau khi nghe chúng tôi trình bày lý do, “cụ Chùa”, như mọi người ở đây gọi nhà sư Thích Đàm Chính như vậy, đã tận tình kể chuyện.

Theo đó, thì chùa Tiêu có tên chữ là “Thiên Tâm Tự”, nhà sư Thích Đàm Chính giải thích: “Thiên Tâm Tự có nghĩa là ngôi chùa đứng giữa trời đất một vùng”.

ANTGT-Giữa trời có chốn kỳ duyên -0
Cổng lên chùa Tiêu.

Nói rồi “cụ Chùa” vui vẻ mời chúng tôi lên Nhà Tổ để thắp hương khấn vái cầu mong Phật tổ chứng giám lòng thành và phù hộ độ trì cho chúng tôi. Phải nói là ban chính điện khá sang với pho tượng Thiền tổ chùa Tiêu và tượng Thiền sư Vạn Hạnh. Nhà sư Thích Đàm Chính chỉ vào pho tượng khoác áo màu vàng được để trong hộp kính và cho biết: “Đây là tượng nhục thân Thiền sư Như Trí, được rước từ mộ tháp Viên Tuệ ra và được bảo quản đặc biệt”. Tôi để ý thấy tượng Thiền sư Vạn Hạnh còn có ngai bài vị ghi rõ “Lý triều nhập nội Tể tướng Lý Vạn Hạnh Thiền sư thần vị”.

Nói rồi nhà sư Thích Đàm Chính đi xuống sân chùa, khi cụ đã yên vị trên chiếc ghế dài kê giữa sân chùa mới thong thả kể: “Mẹ Vua Lý Công Uẩn là Phạm Thị, tên là Ngà. Cô Ngà là người làng Hoa Lâm, châu Cổ Pháp, người làm công quả ở chùa Tiêu. Một hôm cô Ngà tới chùa Tiêu Sơn làm công việc thường ngày thì gặp một vị thần nhân. Hai người đã giao cấu với nhau, do đấy mà có thai”.

ANTGT-Giữa trời có chốn kỳ duyên -0
Nhà sư Thích Đàm Chính ngồi trước Nhà bia đọc đôi câu đối.

Nhà sư còn kể: “Một đêm, trời trong sáng lạ thường, có mây ngũ sắc xuất hiện, vị sư trụ trì ở chùa Ứng Tâm, còn gọi là chùa Dận (ở phường Đình Bảng, TP Từ Sơn hiện nay), đã được báo mộng là ngày mai phải đón vua. Nhưng sáng sớm hôm sau chỉ thấy có người đàn bà tên là Phạm Thị Ngà bụng chửa vượt mặt, đến xin tạm ở chùa Ứng Tâm. Thời gian sau cô Ngà sinh được một người con trai khôi ngô, trong lòng bàn tay có bốn chữ “Sơn-Hà-Xã-Tắc” đỏ như son”. Đó là vào năm Giáp Tuất, 974, thời nhà Đinh”. Tôi nhẩm: “Vậy là tròn 1050 năm”.

Sinh con ở chùa Ứng Tâm xong cô Ngà đưa con về nhà chăm sóc. Theo sách “Đại Việt sử ký tiền biên”, thì “Năm đứa bé lên 3 tuổi nhưng vẫn chưa đặt tên, thì cô Ngà đã bế con đến chùa Cổ Pháp, đó là một ngôi chùa hiện tọa lạc tại khu phố Đại Đình, phường Tân Hồng, TP Từ Sơn. Tại đây cô đã giao đứa con nhỏ của mình cho nhà sư trụ trì tên là Thiền sư Lý Khánh Văn nuôi. Thiền sư Lý Khánh Văn đã nhận làm con nuôi. Và được cha nuôi đặt tên là Lý Công Uẩn”. Tôi hỏi thêm: “Vậy họ Lý theo họ cha nuôi thì đúng rồi. Còn Công Uẩn có nghĩa là gì?”. Sau hồi nghĩ ngợi,  nhà sư Thích Đàm Chính cho hay: “Chắc Thiền sư Lý Khánh Văn đặt tên như vậy là mong sau này lớn lên gánh vác việc lớn”.

Nhà sư Thích Đàm Chính còn nói thêm: “Đến khi đứa bé lên 10 tuổi, thấy đứa trẻ có tư chất thông minh hơn người nên Thiền sư Lý Khánh Văn liền gửi Lý Công Uẩn sang học với thiền sư Vạn Hạnh bên chùa Lục Tổ, còn gọi là chùa Kim Đài hay chùa Quỳnh Lâm, là một ngôi chùa tại xóm Xuân Đài, phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn. Theo sử liệu thì: Thiền sư Vạn Hạnh sinh vào khoảng năm (938-939), người châu Cổ Pháp.

ANTGT-Giữa trời có chốn kỳ duyên -0
Tượng đá Thiền sư Vạn Hạnh trên đỉnh núi Tiêu.

Khoảng 10 năm sau, Thiền sư Vạn Hạnh đã đưa Lý Công Uẩn khi đó vừa tròn 20 tuổi vào Hoa Lư tiến cử với Vua Lê Đại Hành. Mới độ tuổi đôi mươi mà chàng trai Lý Công Uẩn đã tỏ ra là người có tư chất thông minh, học tài, trí rộng và thực sự hơn người.

Xin nói thêm là Thiền sư Vạn Hạnh được Vua Lê Đại Hành vô cùng tôn kính nên thường được nhà vua hỏi về việc nước, nhất là chuyện nếu đánh giặc Tống xâm lược Đại Cồ Việt thì sẽ thắng hay bại. Thiền sư Vạn Hạnh đã trả lời là: “Trong vòng từ ba đến bảy ngày, quân Tống sẽ rút lui”. Lời này sau ứng nghiệm nên Thiền sư Vạn Hạnh càng có tín nhiệm với nhà vua.

Chàng trai Lý Công Uẩn được phụng sự nhà Tiền Lê, chàng đã mau chóng được “trổ tài bình thiên hạ”. Năm 1005, Vua Lê Đại Hành băng hà, các hoàng tử tranh đoạt ngôi vị. Năm 1006, Lê Long Việt giành được ngôi vua, tức Lê Trung Tông, nhưng chỉ 3 ngày sau thì bị Lê Long Đĩnh giết để giành ngôi. Các quan sợ hãi bỏ chạy, chỉ có Lý Công Uẩn ôm xác vua mà khóc. Lê Long Đĩnh không trị tội mà còn khen ông là người trung nghĩa, tiếp tục trọng dụng, cho làm Tứ sương quân Phó Chỉ huy sứ, rồi sau thăng đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ.

Theo sách “An nam lược chí” thì năm 1009, Lê Long Đĩnh mất, Thái tử còn bé, hai người em là Lê Minh Đề và Lê Minh Xưởng tranh cướp ngôi vua, bị Lý Công Uẩn giết chết. Chi hậu (một chức quan nhỏ) Đào Cam Mộc do ngầm liên kết với Thiền sư Vạn Hạnh và mấy quan đại thần khác nhân cơ hội đã tôn Lý Công Uẩn lên làm vua. Lý Công Uẩn lên ngôi hoàng đế ngày 21/11/1009, đặt niên hiệu là Thuận Thiên, nghĩa là "theo ý trời". Có thể nói: “Thiền sư Vạn Hạnh, người cha tinh thần, người thầy giáo và người vạch ra con đường đi tới ngai vàng cho Lý Công Uẩn”. Thiền sư Vạn Hạnh được Nhà Lý suy tôn là Quốc sư.

ANTGT-Giữa trời có chốn kỳ duyên -0
Nhà sư Thích Đàm Chính ngồi giữa sân chùa lựa chọn quả thị chín từ cây thị sinh đôi trong sân chùa Tiêu.

Rồi nhà sư Thích Đàm Chính dẫn chúng tôi tới Nhà bia được dựng ở bên cạnh Nhà Tổ, đó là một nhà bia được xây dựng bằng đá, bên trong có tấm bia đá cổ đặt trên lưng rùa đá, mặt trước ghi dòng chữ “Lý gia linh thạch”, niên đại “Cảnh Thịnh nguyên niên” (1793), mặt sau ghi chép về lai lịch và công trạng của Lý Công Uẩn. Tường ngoài nhà bia có khắc đôi câu đối bằng chữ Hán. Nhà sư Thích Đàm Chính ngồi ngay bậc thềm lối lên Nhà Tổ, tay phải của cụ lấy quạt che nắng, cụ chậm rãi đọc: “Lý gia linh tích tồn bi kỷ/ Tiêu lĩnh danh kha đắc sử truyền” và nhà sư giảng giải, câu đối ấy có nghĩa là “Dẫu thiêng nhà Lý còn bia tạc/ Danh thắng non tiên có sử truyền”.

Chúng tôi đi vãng cảnh chùa Tiêu xong thì quay trở lại sân chùa. Hiện trong sân có hai cây thị cổ thụ, người đời gọi là hai cây thị sinh đôi bởi hai cây cách nhau chừng 2 mét chứ không chung một gốc. Hai cây thị đều cao, to, dáng thẳng như nhau, bóng lá tỏa rợp cả sân chùa. Ngồi dưới gốc thị ngào ngạt hương thị chín, nhà sư Thích Đàm Chính kể thêm: “Thuở xa xưa vùng đất này có con sông tên là Tiêu Tương hay sông Tương. Chuyện xưa kể về một chàng đánh cá nghèo tên là Trương Chi sống trong một chiếc thuyền chài nhỏ trên sông Tiêu Tương. Ngày ngày chàng vừa thả lưới vừa cất lời ca, tiếng hát. Tiếng hát của chàng vọng đến lầu của nàng Mỵ Nương. Nghe tiếng hát, Mỵ Nương đem lòng yêu chàng Trương Chi say đắm”.

Hiện sông Tiêu Tương chỉ còn lại một hồ nước ngay dưới chân núi Tiêu, phía trước chùa Tiêu. Nhà sư Thích Đàm Chính cho hay: “Cũng là để cảnh quan chùa Tiêu thêm tiêu dao”. Tôi còn được biết thêm: “Phường Tương Giang hiện nay mang tên của dòng sông Tương”.

Đứng ở Lầu Quan Âm nhìn lên núi Tiêu dưới vòm trời thu xanh ngắt, thấy uy nghi tượng Quốc sư Vạn Hạnh bằng đá cao 5m, thấy chùa Tiêu hay Thiên Tâm Tự trầm mặc giữa cây lá tốt tươi, giữa ngàn hoa thơm đua nở, lòng tôi thầm thốt lên: “Đúng là giữa trời có chốn kỳ duyên”.

Chúng tôi cùng chung ý nghĩ, chính miền quê Kinh Bắc sâu đậm văn hóa và thấm đẫm lịch sử này đã sinh ra Lý Công Uẩn, và rèn giũa Lý Công Uẩn trở thành một vị Anh Quân lập nên triều đại nhà Lý của nước Đại Việt. Một triều đại huy hoàng với những chiến công hiển hách.

Cũng chính Đức Lý Công Uẩn đã nhận thức rõ vị trí địa lý của thành Đại La: “Ở vào nơi trung tâm trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước... Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời” mà mùa xuân năm 1010, đã quyết định dời đô Hoa Lư ở giữa vùng núi non hiểm trở Ninh Bình, để đến vùng đất đồng bằng bên sông Hồng, lập nên Kinh thành Thăng Long (Thủ đô Hà Nội ngày nay) ngàn năm văn hiến.

Nguyễn Trọng Văn
.
.