Làng nghề truyền thống hồi sinh: “Mỏ vàng” cho du lịch
Sau nhiều thăng trầm của đời sống, bị mai một theo thời gian, nhiều làng nghề thủ công truyền thống hàng trăm năm tuổi đang được “hồi sinh” khi lối sống xanh, thân thiện với môi trường ngày càng được quan tâm. Những “kho” di sản quý của vùng quê, cách xa đô thị ồn ào đang được kỳ vọng mở thêm cơ hội cho phát triển du lịch - ngành công nghiệp không khói.
Du lịch gắn với làng nghề, nhìn từ làng dệt 400 năm tuổi
Làng nghề dệt đũi Nam Cao, xã Lê Lợi, tỉnh Hưng Yên những ngày cuối năm rầm rập tiếng khung cửi dệt trong nhiều hộ gia đình. Trong khuôn viên hàng trăm m2 của gia đình nghệ nhân Nguyễn Đình Đại, những người thợ dệt miệt mài quay tơ, dệt lụa. Cùng chồng tất bật đón khách, bà Nguyễn Thị Hòa tự hào cho biết, đây là nghề ông cha truyền lại cả trăm năm, đến nay đã có 4-5 thế hệ trong gia đình theo nghề.
Từ thuở nhỏ, những đứa trẻ trong làng đã làm quen với đánh ống, kéo sợi, với mắc cửi, khung dệt. Bà Hòa không nhớ ông, cha đã theo nghề này từ bao giờ, chỉ nghe kể lại, từ trước thời Pháp thuộc, làng Nam Cao đã có nghề dệt. Người trong làng gọi nôm na là thời “khăn đũi yếm sồi”. Ngày ấy, khổ dệt còn nhỏ, sản phẩm đựng trong cái xách như là bao hàng bây giờ. Thấy chất liệu đẹp, người Tây gợi ý cung cấp làm thành áo dài, áo vest. Để có được tấm vải khổ rộng như ngày nay, cụ ông trong nhà phải lặn lội nhiều nơi học nghệ. Sản phẩm của làng được thị dân ưa thích. Kháng chiến bùng nổ, gia đình vẫn sản xuất, phục vụ quân nhu. Thời bao cấp lại vào hợp tác xã.
Hết bao cấp, hợp tác xã giải thể, nhiều gia đình, trong đó có gia đình bà lại lặn lội khắp nơi tìm thị trường. Lăn lộn trong Nam, ngoài Bắc, sang tận Lào, Thái Lan. Cho đến nay, gia đình bà chưa bao giờ bỏ nghề. Kể cả thời điểm liêu xiêu vì COVID-19, lũ lụt khiến mùa tằm tơ thất bát, gia đình bà vẫn túc tắc làm nghề. Những năm gần đây, khi lối “sống xanh”, sử dụng vật liệu thân thiện với môi trường, sản phẩm ngày càng được ưa chuộng, không chỉ tiêu thụ trong nước mà còn xuất ngoại. Một số trường, tổ chức đoàn thể liên hệ với gia đình bà đưa các đoàn khách, thanh thiếu niên xuống tìm hiểu, trải nghiệm nghề truyền thống nhưng làm dịch vụ du lịch thì với gia đình bà vẫn còn là câu chuyện khá xa xôi.
Len lỏi qua nhiều con ngõ nhỏ, tường gạch rêu phong - dấu tích còn lại của làng nghề thời cực thịnh, chúng tôi đến Hợp tác xã lụa đũi Nam Cao. Gọi là hợp tác xã nhưng đây chỉ là ngôi nhà nhỏ, cũ kỹ và là cơ sở của một thương hiệu được gây dựng bởi một người con dâu của làng, yêu nghề mà đến với nghề. Nhiều khách du lịch và người dân Thủ đô có thể đã khá quen với thương hiệu này. Nhưng với người dân địa phương, nhất là thợ dệt, thương hiệu này còn được gửi gắm nhiều kỳ vọng về một dự án phục hồi làng nghề quy mô lên đến hàng chục ha. Đây không chỉ là cơ sở sản xuất quy mô lớn mà còn là mô hình, điểm đến nghỉ dưỡng với nhiều trải nghiệm thú vị, hấp dẫn du khách trong tương lai gần.
Trao đổi với chúng tôi, ông Hà Thế Công, Trưởng phòng Văn hóa xã hội xã Lê Lợi cũng tự hào cho hay, làng nghề dệt đũi Nam Cao đã có hơn 400 năm. Những năm 80 - 90 của thế kỷ trước, làng dệt đũi Nam Cao đặc biệt nhộn nhịp và hàng chủ yếu xuất khẩu đi Đông Âu. Mỗi nhà có 2-3 khung cửi. Ban ngày, đầu làng cuối xóm đều ầm ầm tiếng dệt vải. Thời ấy, ông làm giáo viên nhưng 2 vợ chồng thường tranh thủ về làng nhận hàng làm thêm. Thu nhập từ nghề dệt đũi cao gấp nhiều lần lương giáo viên. Có khi chỉ chục ngày đủ mua 1 chỉ vàng.
Sau này, hàng không còn xuất khẩu đi Đông Âu, mất một thời gian mai một, người làng lại tìm kiếm các thị trường khác. Đến nay, Nam Cao chỉ còn 2 cơ sở lớn, trong đó, gia đình nghệ nhân Nguyễn Đình Đại mà chúng tôi đến thăm là một trong những gia đình có nghề lâu năm nhất. Sản phẩm của Nam Cao hiện cũng đã vươn ra nhiều thị trường, kể cả các đô thị lớn trong nước và xuất khẩu sang Thái Lan, Lào, Campuchia, Hàn Quốc nhưng chưa thể nhộn nhịp như xưa. Địa phương đang có chủ trương dành quỹ đất lớn để Hợp tác xã dệt đũi Nam Cao chuyển về, xây dựng thành khu vực vừa bảo tồn, giữ gìn, phát huy giá trị nghề truyền thống, vừa gắn với phát triển du lịch địa phương.
Cũng theo ông Hà Thế Công, địa phương cũng từng triển khai xây dựng một số tour du lịch gắn với văn hóa vùng miền, trải nghiệm văn hóa, ẩm thực bản địa. Riêng tại Lê Lợi và khu vực xung quanh rất giàu tiềm năng để khai thác du lịch. Nếu là làng nghề truyền thống, ngoài làng nghề dệt đũi Nam Cao còn có làng nghề chạm bạc Đồng Xâm, các nghề mây tre đan… Ẩm thực có đặc sản rươi Hồng Tiến, chè xanh Nam Đường… Tuy nhiên, ông Hà Thế Công cũng cho rằng, những tiềm năng này chưa được khai thác để phục vụ phát triển du lịch ở địa phương.
Cần chuẩn bị kỹ, đầu tư đồng bộ để phát huy thế mạnh của làng nghề
Vấn đề của những làng nghề như ở Lê Lợi nói trên không phải là cá biệt. Trước đó, chúng tôi từng theo đoàn famtrip về làng ươm tơ Cổ Chất - một trong những làng nghề có hàng trăm năm của Nam Định (cũ), hiện vẫn ươm tơ theo phương thức thủ công truyền thống. Nếu trước đây, cả làng theo nghề ươm tơ thì nay chỉ còn vài chục hộ giữ nghề.
Đã có những đơn vị phát triển du lịch xanh tìm về làng để khai thác phục vụ du khách. Đây cũng được coi là địa chỉ nhiều tiềm năng để khai thác, phát triển du lịch nông thôn. Thế nhưng, cũng tương tự như các làng nghề của Lê Lợi (Hưng Yên), khi các doanh nghiệp, đơn vị hoạt động du lịch về khảo sát đều chung nhận định rằng các làng nghề này rất giàu tiềm năng để phát triển du lịch nhưng hiện vẫn rất khó để đưa vào khai thác.
Trao đổi quanh câu chuyện phát triển điểm đến du lịch Hưng Yên, trong đó có du lịch cộng đồng và trải nghiệm làng nghề, Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hưng Yên Phạm Văn Hiệu thẳng thắn thừa nhận, sau sáp nhập, Hưng Yên hiện có nhiều thế mạnh hơn để phát triển du lịch.
Về du lịch cộng đồng và trải nghiệm làng nghề, Hưng Yên hiện có làng nghề hương xạ Thôn Cao, làng nghề tương Bần, nước mắm Diêm Điền, làng nghề dệt chiếu Hới, làng nghề dệt đũi Nam Cao, nghề chạm bạc Đồng Xâm, đúc đồng Lộng Thượng, làng nghề hoa cây cảnh… Địa phương cũng có rất nhiều đặc sản nổi tiếng, nhiều đặc sản đã từng được tiến vua: Nhãn lồng, gà Đông Tảo…. Nhiều món ăn bổ dưỡng, đậm chất quê vùng phù sa châu thổ như bún thang lươn, chè sen long nhãn, bánh cuốn làng Phú Thị, bánh răng bừa Phụng Công, bánh cáy làng Nguyễn, chả gà Tiểu Quan, ếch om Phượng Tường, canh cá Quỳnh Côi, vải trứng Phù Cừ...
Nếu được định hướng và đầu tư phát triển một cách hợp lý thì đây sẽ là các yếu tố góp phần phát triển du lịch, đưa địa phương trở thành điểm đến hấp dẫn của du khách trong và ngoài nước. Những ai yêu quý và quan tâm đến du lịch Hưng Yên nói riêng và ngành du lịch vùng Đồng bằng sông Hồng nói chung đều thấy đây là vùng đất giàu tiềm năng để phát triển du lịch.
Nhưng làm sao có thể đầu tư đúng mức và khai thác một cách khoa học, hiệu quả tiềm năng hiện hữu này, để du lịch không chỉ phát triển nhanh mà còn phải phát triển bền vững, không chỉ phát triển du lịch gắn với bảo tồn các giá trị di sản văn hóa mà còn gắn liền với nỗ lực xóa đói giảm nghèo cho cộng đồng dân cư… thì vẫn còn nhiều vấn đề phải bàn.
Thực tế, những vấn đề trên không chỉ đặt ra với riêng một địa phương như Hưng Yên mà còn với nhiều tỉnh, thành phố khác. Ngay với Hải Phòng - một trong những địa phương có nhiều điểm sáng về du lịch trong thời gian qua, nhưng riêng về du lịch gắn với làng nghề truyền thống, Phó giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Hải Phòng Vũ Đình Tiến cũng cho rằng không dễ để phát huy hết tiềm năng đang có.
Thực tế, thời gian qua, các địa phương đón khá nhiều đoàn famtrip. Quá trình trao đổi, đại diện rất nhiều doanh nghiệp, người làm du lịch đều cho rằng, để khai thác lợi thế từ những làng nghề truyền thống trong phát triển du lịch, các địa phương cần phải chuẩn bị rất kỹ, đầu tư đồng bộ cả về cơ sở vật chất lẫn nhân lực.
Có thể hiện nay, các làng nghề đã thuận lợi hơn về giao thông nhưng phục vụ du lịch thì cần đầu tư nhiều hơn. Nếu tổ chức đón khách, cần tính tới cả nơi ăn, nghỉ, dịch vụ đi kèm. Ngay cả những chuyện tưởng chừng như tiểu tiết nhưng đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời như chuyện phơi thóc ngoài đường có thể không đảm bảo an toàn giao thông cho du khách; thiếu địa điểm dành cho phương tiện giao thông khi đón các đoàn khách lớn; trang bị kỹ năng cần thiết cho người dân khi bắt tay vào làm dịch vụ du lịch hay hệ thống biển chỉ dẫn trên đường làng nhiều ngóc ngách như “mê hồn trận” với khách phương xa… Nếu chưa đáp ứng đủ các điều kiện, khi triển khai đón khách sẽ dễ gây thất vọng khiến du khách không trở lại, thậm chí lan tỏa hình ảnh thiếu tích cực cho du lịch địa phương.
Đối với việc quy hoạch thành những khu bảo tồn, phát triển làng nghề gắn với sản phẩm du lịch cụ thể, các dịch vụ như homestay cũng được cho là cần phải tính toán rất cụ thể. Bởi lẽ, làng nghề gắn với văn hóa làng, với phong tục, tập quán của người dân bản địa. Du khách đến địa phương không chỉ tìm hiểu về nghề, sản phẩm truyền thống, mà còn mong muốn trải nghiệm sâu sắc về văn hóa, vùng đất, con người ở từng địa phương họ đến du lịch…

Từ làng nghề truyền thống đến sân chơi toàn cầu
Festival Làng nghề Quốc tế 2025: Hà Nội tôn vinh di sản, kết nối tinh hoa thủ công thế giới