Về Số phận ly kỳ của kim ấn “Hoàng đế chi bảo”

Thứ Hai, 31/10/2022, 16:39

Một trong số hai cổ vật của nhà Nguyễn (1802-1945) đang được rao bán tại Pháp với mức 2-3 triệu euro (khoảng 48-72 tỷ đồng) được cho là chiếc kim ấn “Hoàng đế chi bảo”. Đây là chiếc kim bảo lớn, đẹp và có ý nghĩa quan trọng nhất của triều Nguyễn. Trước khi lên sàn đấu giá, “báu vật” triều Nguyễn có hành trình lưu lạc ly kỳ.

Chiếc kim ấn có lịch sử gần 200 tuổi

Sách “Ấn chương trên châu bản triều Nguyễn” (1802-1945) ghi lại, triều Nguyễn tạo tác và sử dụng rất nhiều loại ấn triện, đủ cả quan ấn, tư chương, khắc theo lối âm văn và dương văn. Trong đó, ấn làm bằng vàng, gọi là kim ấn, và triện làm bằng ngọc, gọi là ngọc tỷ.

hinh anh.jpeg -0
Hình ảnh chiếc ấn “Hoàng đế chi bảo”.

Theo tiến sĩ Phan Thanh Hải - Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Thừa Thiên Huế, kiêm Phó chủ tịch Hội Khảo cổ học Việt Nam, dưới thời Nguyễn, bảo tỷ có hơn trăm chiếc, riêng dưới thời của hai hoàng đế đầu triều là Gia Long và Minh Mạng đã có đến hơn 20 chiếc; mỗi chiếc đều có công năng và ý nghĩa riêng. Đặc biệt, trong 20 chiếc bảo tỷ đúc giai đoạn đầu thời Nguyễn, có 6 chiếc đúc thời Gia Long và 14 chiếc đúc dưới thời Minh Mạng. Kim ấn “Hoàng đế chi bảo” có vị trí rất quan trọng trong hệ thống Kim Bảo Tỷ của các hoàng đế triều Nguyễn. Đây cũng là chiếc kim ấn mà vị vua cuối cùng của triều Nguyễn đã trao cho đại diện chính quyền cách mạng tại Ngọ Môn.

Sách “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” do nội các triều Nguyễn biên soạn cho biết,  Ấn này được đúc bằng vàng ròng vào ngày 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4 (tức ngày 15/3/1823), nặng 280 lạng 9, chỉ 2 phân vàng (ước tính tương đương 10,7kg).

ts.jpeg -0
Tiến sĩ Phan Thanh Hải – Giám đốc Sở Văn hóa và Thể thao Thừa Thiên Huế.

Tiến sĩ Phan Thanh Hải cho biết: “Theo ảnh tư liệu mà chúng tôi hiện có, ấn đúc hình vuông, quai ấn là một con rồng uốn khúc (rồng đoanh), đầu ngẩng cao, mắt nhìn thẳng về phía trước. Đỉnh đầu rồng khắc hình chữ vương; kỳ (vây lưng) dựng đứng; đuôi cũng dựng đứng, vây đuôi uốn cong về phía trước; 4 chân rồng đúc rõ 5 móng, tư thế chống chân xuống mặt ấn rất vững vàng. Mặt dưới của ấn khắc 4 chữ triện (Hoàng đế chi bảo). Mặt trên của ấn, phía 2 bên quai khắc nổi 2 dòng chữ: “Minh Mạng tứ niên nhị nguyệt sơ tứ nhật cát thời chú tạo” (Đúc vào giờ tốt ngày mồng 4 tháng 2 năm Minh Mạng thứ 4). “Thập thành hoàng kim, trọng nhị bách thập lạng cửu tiền nhị phân”.

Cuốn “Đại Nam thực lục chính biên của Quốc sử quán triều Nguyễn” (NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 1963) còn ghi nhận: “Ngày Giáp Thìn (tức 15/3/1823), đúc ấn Hoàng đế chi bảo, núm làm rồng cuốn hai tầng, vuông 3 tấc 2 phân, dày 5 phân, bằng vàng 10 tuổi”. Quy đổi ra hệ thống đo lường phổ dụng hiện nay, ấn “Hoàng đế chi bảo” được xác định có mặt hình vuông, mỗi cạnh dài 12,8cm và dày 2cm.

Về trọng lượng của chiếc ấn này, trong hồi ký của mình, ông Trần Huy Liệu, Trưởng đoàn đại diện Chính phủ lâm thời khi ấy đã viết: “Khi tiếp nhận thanh kiếm của Bảo Đại dâng lên thì không có gì đáng kể. Nhưng khi tiếp nhận chiếc ấn vàng, tôi đã phải chịu đựng sức nặng bất ngờ của cái ấn. Chiếc ấn nặng tới 7 kg vàng! Khi giơ hai tay đỡ cái ấn, tôi có ngờ đâu nó nặng đến thế nên không chuẩn bị tư thế từ trước. Tuy vậy khi chiếc ấn nặng trĩu đã nằm trong tay, tôi phải cố gắng vận dụng hết sức bình sinh để chống đỡ, không để nó trĩu xuống, nhất là đừng để người tôi khỏi nghiêng ngả, vì tư thế của tôi lúc ấy có phải thuộc riêng của tôi đâu, mà là tư thế của một vị đại diện Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đương làm một việc rất quan trọng trong giờ phút lịch sử. Cũng may là tôi đã làm tròn trách nhiệm “nặng nề” ấy”.

Cũng theo sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, ấn Hoàng đế chi bảo được dùng khi “Gặp khánh tiết ban ơn, đại xá thiên hạ cũng là các cáo dụ thân huân, đi tuần thú các nơi để xem xét các địa phương, mọi điển lễ long trọng ấy và ban sắc, thư cho ngoại quốc…”.

Vì thế, khi tuyên bố thoái vị vào ngày 30/8/1945, trong số hơn 200 ấn triện các loại đang còn lưu giữ tại điện Cần Chánh và Ngự tiền văn phòng (bên trong Hoàng Thành Huế), vua Bảo Đại đã chọn chiếc ấn đẹp nhất, quý nhất, biểu trưng của chế độ quân chủ thời Nguyễn là kim ấn “Hoàng đế chi bảo”, cùng thanh bảo kiếm mà phụ vương của ông là vua Khải Định trao lại cho ông, để bàn giao cho chính quyền Cách mạng.

Ly kỳ hành trình lưu lạc

“Hoàng đế chi bảo” từng thuộc về Bảo Đại – vị vua thứ 13 của triều Nguyễn, triều đại cuối cùng của Việt Nam. Cũng như chủ nhân của mình, chiếc kim ấn đã phải trải qua những năm tháng long đong, chìm nổi.

bia.jpeg -0
Bìa cuốn “Hỏi chuyện đời bà thứ phi Mộng Điệp với cựu hoàng Bảo Đại” của Nguyễn Đắc Xuân.

Hôm sau, khi được Cựu hoàng Bảo Đại trao lại cho đại diện Cách mạng, bộ ấn kiếm được đem ra Hà Nội để kịp dự lễ độc lập vào ngày 2/9/1945. Cuối năm 1946, khi Pháp quay trở lại Việt Nam và đưa quân vào Hà Nội, đơn vị làm nhiệm vụ cất giữ bộ ấn kiếm trên trước khi rút lên Việt Bắc trường kỳ kháng chiến đã đem giấu chúng vào vách một ngôi nhà trong làng ở ngoại thành Hà Nội.

Trong cuốn “Việt Nam những sự kiện lịch sử (1919-1945)” của tác giả Dương Trung Quốc (NXB Giáo dục,  2003), “bảo vật” của triều Nguyễn được phát hiện tại xã Nghĩa Đô, quận hành chính Quảng Bá – Yên Thái vào năm 1952. Nội dung cuốn sách thuật lại: “Báo cáo ngày 28/2/1952 của Quận trưởng quận hành chính Quảng Bá – Yên Thái gửi Đại lý Hành chính Hoàn Long, trong hồ sơ số 16 phông Văn phòng Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam tại Đà Lạt có ghi: “Trân trọng trình ông rõ: hồi quá trưa ngày 28/2/1952 hôm nay, được tin mật báo là công nhân của tiểu đoàn nhảy dù 2è BBC đóng tại Liễu Giai đi tìm gạch vỡ tại một ngôi nhà tàn phá trong Nghĩa Đô, tìm kiếm đào chân móng đã thấy một ống kẽm và một hộp kẽm trong đựng một thanh kiếm và một của ấn vàng. Tôi thân đến liên lạc với vị chỉ huy là thiếu tá Toce Raymond thì vị võ quan này nói là cũng sắp báo tôi biết về việc đó”.

Theo thông tin tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I, nội dung trên trùng khớp với nội dung trong biên bản về việc phát hiện ấn kiếm tại làng Nghĩa Đô lập hồi 16h ngày 28/2/1952 trong hồ sơ số 3262, phông Văn phòng Quốc trưởng Quốc gia Việt Nam.

Ghi chép tại Trung tâm Lưu trữ Quốc gia I cung cấp thêm, báo cáo ngày 28/2/1952 có ghi: “Nơi tìm thấy quốc bảo là chân móng ngôi nhà bị tàn phá hết cả tường của Hà Văn Dô (Hà Văn Đô/ Hà Đô?) tậu tại làng Nghĩa Đô, mà Đô hiện nay còn ở Hậu phương, có lẽ là một nhân viên quan trọng của Việt Minh… bộ đội Việt Minh có đóng ở nhà đó ít lâu, rồi sau quân đội Pháp tấn công, họ rút lui. Có lẽ ấn và kiếm này là Bảo vật trong khi Đức quốc trưởng Bảo Đại thoái vị đã trao cho Việt Minh mà đến khi họ rút lui khỏi làng Nghĩa Đô đêm chôn giấu vào móng tường nhà này”.

Báo cáo mật ngày 19/4/1952 của Văn phòng Phủ Thủ hiến Bắc Việt về việc này có các thông tin: “Căn nhà nơi tìm thấy ấn kiếm tại làng Nghĩa Đô ban đầu là của Bá Sinh, một chủ sòng bạc nổi tiếng thời đó tại Hà Nội. Sau đó, Bá Sinh bán cho hãng Phú Mỹ rồi sau bán cho Vũ Văn Hợi. Cuối cùng, căn nhà được bán cho Hà Văn Dô, người làm nghề sửa ô tô ở phố Hàng Đậu. Hà Văn Dô từ khi tậu căn nhà này có nhiều hoạt động bí ẩn và hàng xóm hoàn toàn không biết ông ấy làm gì. Ông đi một chiếc xe tải phủ bạt khi về nhà. Chính tại căn nhà của Hà Văn Dô, Bộ Tài chính của Chính phủ Hồ Chí Minh đã chuyển thiết bị in tiền sau khi quân đội Pháp đến Hà Nội năm 1946. Căn nhà bị chính quyền quân sự Pháp phá hủy năm 1947. Chính quyền quân sự Pháp đã thu được một số lượng nhỏ vàng và một số máy in”.

Theo Khâm định Đại Nam Hội điển sự lệ tập VIII, quyển 225, sau khi lấy được bộ ấn kiếm trên, ngày 3/3/1952, Pháp đã tổ chức một nghi lễ khá long trọng tại “Hoàng triều cương thổ” để trao lại ấn kiếm cho Bảo Đại không phải trên cương vị “Đại Nam hoàng đế”, mà là “Quốc trưởng” của một chính phủ mới được vội vã dựng nên.

thang 3.jpg -0
Tháng 3/1952, thực dân Pháp tổ chức nghi lễ để trao lại ấn kiếm cho Bảo Đại trên cương vị là “Quốc trưởng”.

Theo các tác phẩm “Qua Pháp tìm Huế xưa” và “Hỏi chuyện đời bà thứ phi Mộng Điệp với cựu hoàng Bảo Đại” của nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, bà Mộng Điệp - thứ phi của vua Bảo Đại kể lại: “Để khỏi sợ mất một lần nữa, ông Bảo Đại giao cho Nguyễn Duy Trinh (em ruột Nguyễn Duy Quang) ở Sài Gòn đóng một cái cốp sắt đem lên để giữ hai báu vật nầy và một cái mũ của vua Gia Long do Đức Từ Cung mang từ Huế lên. Cái mũ nầy bện bằng tóc, có kết chín con rồng tí tí bằng vàng. Năm 1953, chiến tranh trở nên ác liệt, không dám đem cặp ấn kiếm về Huế. Cuối cùng ông Bảo Đại viết giấy giao cho tôi mang sang Pháp cùng với một số tư trang. Sau đó tôi giao hai báu vật ấy lại cho Hoàng hậu Nam Phương và Hoàng tử Bảo Long. Khi tôi đem sang giao có mặt các ông Nguyễn Đệ, Nguyễn Duy Quang, Nguyễn Tiến Lãng, Phạm Bích (con ông Phạm Quỳnh). Bốn người bưng hai cái ấn kiếm lên và giúp bà Nam Phương đưa vào tủ sắt”…

Ghi chép của tiến sĩ Phan Thanh Hải cho biết, cặp ấn kiếm được Hoàng tử Bảo Long giữ được gửi tủ sắt của Liên hiệp Ngân hàng châu Âu (Union des banques européennes). Sau ngày xuất bản cuốn “Le Dragon d Annam” (1980) và sau ngày Bảo Đại làm giấy hôn thú với bà Monique Baudot (1982), ông Bảo Đại làm đơn kiện con trai Bảo Long đòi lại cặp ấn kiếm. Tòa xử Bảo Long được giữ cây kiếm và giao lại chiếc ấn cho Bảo Đại. Nghe nói rằng, vì túng tiền nên vị Hoàng tử Bảo Long đã bán mất cây kiếm trên. Sau khi cựu hoàng Bảo Đại qua đời, quyền quản lý thuộc về bà Monique Baudot (người Pháp), bà vợ cuối cùng có hôn thú của cựu hoàng. Từ đó, không còn tin tức gì về chiếc ấn “Hoàng đế chi bảo” này nữa.

Kim ấn cuối cùng và cũng được xem là chiếc ấn quý giá nhất của triều Nguyễn lẽ đúng ra phải thuộc về quyền sở hữu của nhân dân Việt Nam. Thế nhưng, trên thực tế, nó cùng với không ít các bảo vật khác vẫn đang lưu lạc xứ người, chờ cơ hội để hồi hương.

Về chiếc bát vàng triều Khải Định (1917-1925)

Chiếc bát vàng quý hiếm này được trang Million đánh số lô 100/329, có đường kính miệng cao 10,4 cm, cao 7 cm, nặng 456,6g. Mặt ngoài thân bát chạm trổ các đồ án: Rồng mặt nạ, long hí thủy (rồng giỡn với nước), hốt như ý và thủy ba văn (văn sóng nước).

Lòng bát bọc khắc nổi ba đồ án lưỡng long triều thủy (hai con rồng chầu cột nước) và khắc nổi bốn chữ: (Khải Định niên tạo) ở chính giữa; phía trên bọc một lớp thủy tinh màu nâu đậm. Mặt dưới đáy bát có khắc nổi bốn chữ:  (Khải Định niên tạo: làm dưới triều Khải Định). Hãng đấu giá của Pháp đặt giá khởi điểm cho chiếc bát đời Khải Định từ 20.000 - 25.000 euro.

Bạch Dương
.
.