Venezuela có thể làm gì khi bị xâm lược?
Sự gia tăng đáng kể sức mạnh quân sự của Mỹ trên vùng biển Caribe kể từ tháng 8/2025 - được củng cố bởi sự xuất hiện của đội hình tác chiến tàu sân bay USS Gerald R. Ford, việc triển khai máy bay tiêm kích F-35 đến Puerto Rico, các cuộc tuần tra hải quân mở rộng, việc tăng cường khoảng 15.000 binh sĩ Mỹ và tuyên bố phong tỏa hải quân đối với các tàu chở dầu Venezuela bị trừng phạt - cho thấy Washington đang chuẩn bị cho một kế hoạch không đơn giản nhằm vào Venezuela.
“Mượn đường diệt Quắc”?
Chính quyền của Tổng thống Donald Trump ban đầu mô tả nỗ lực triển khai này là một chiến dịch chống ma túy, nhưng quy mô tăng cường lực lượng lại vượt xa mức cần thiết để ngăn chặn các tàu được cho là chở ma túy. Hơn nữa, việc bắt giữ một tàu chở dầu thuộc “đội tàu ma” (mạng lưới tàu chở dầu chuyên né tránh các lệnh trừng phạt quốc tế) diễn ra gần đây, tuyên bố phong tỏa ngay sau đó và các tuyên bố công khai khác của ông Trump cho thấy Mỹ có khả năng thực hiện hành động cưỡng chế nhằm vào chính phủ của Tổng thống Venezuela Nicolas Maduro.
Vấn đề là, nếu thực sự như thế thì Venezuela có thể phản ứng như thế nào trước hành động quân sự Mỹ? Đâu là bức tranh đánh giá năng lực quân sự, khả năng sẵn sàng và cách tiếp cận mang tính học thuyết của “Lực lượng vũ trang quốc gia Bolivar” đối với sự can thiệp từ bên ngoài?
Chính phủ Venezuela dưới thời Tổng thống Hugo Chávez (1999-2013) đã lấy tên gọi này để vinh danh Simón Bolivar, một nhà giải phóng đã chiến đấu cho nền độc lập của Nam Mỹ vào thế kỷ 19 và có những lý tưởng tạo nên nền tảng cho chủ nghĩa dân tộc hiện đại của Venezuela, được gọi là chủ nghĩa Bolivar, qua đó liên kết quân đội với những di sản cách mạng của ông.
Venezuela từng tự xưng là cường quốc quân sự dưới thời ông Chávez, nhưng lực lượng vũ trang Venezuela hiện nay lại lỗi thời và suy yếu. Tuy vậy, ông Maduro vẫn có thể dựa vào một số lực lượng trung thành, cũng như nhiều lực lượng vũ trang phi nhà nước vẫn tồn tại nhờ chế độ cầm quyền, cho phép nhà nước Venezuela tiến hành kháng chiến theo kiểu du kích.
Mặc dù chính quyền ông Maduro không còn nhắc đến “Kế hoạch Zamora”, nhưng các cấu trúc dân sự - quân sự, quốc phòng và kiểm soát nội bộ được thiết lập nhờ đó - cụ thể là các khu vực phòng thủ lãnh thổ, việc huy động dân quân, mạng lưới giám sát khu phố và các nhóm kháng chiến đô thị - vẫn còn bám rễ trong kiến trúc an ninh của Venezuela. Do đó, dù lực lượng an ninh nhà nước không thể ngăn chặn một cuộc tấn công quân sự của Mỹ theo cách thông thường, nhưng họ vẫn có thể duy trì đủ năng lực bất đối xứng để khiến bất kỳ sự can thiệp nào của nước ngoài trở nên dai dẳng, tốn kém và đầy rủi ro chính trị.
Quân số và năng lực
Từ năm 1999 đến giữa những năm 2010, Venezuela đã thể hiện hình ảnh một cường quốc quân sự khu vực khác biệt so với các nước láng giềng Mỹ Latinh. Việc ông Chávez mua chiến cơ Su-30MK2, xe tăng T-72B1, hệ thống phòng không S-300 và Buk, xe chiến đấu bộ binh BMP-3 và một loạt hệ thống pháo binh của Nga đã tạo nên kho vũ khí mà trên lý thuyết là vượt trội so với năng lực quân sự của nhiều quốc gia trong khu vực. Tuy nhiên, sự sụp đổ của nền kinh tế, siêu lạm phát, các lệnh trừng phạt và sự di cư của gần 8 triệu người kể từ giữa những năm 2010 đã làm suy yếu nghiêm trọng sức mạnh này.
Theo đánh giá gần đây, quân đội Venezuela có khoảng 123.000 quân nhân tại ngũ: 63.000 trong lục quân, 25.500 trong hải quân, 11.500 trong không quân và 23.000 trong lực lượng Vệ binh quốc gia. Bổ sung cho họ là khoảng 8.000 quân dự bị và ít nhất 200.000-300.000 dân quân Bolivar, một lực lượng dự bị dân sự - quân sự riêng biệt được ông Chávez thành lập với mục đích đảm bảo phòng thủ lãnh thổ và chống bất đồng chính kiến trong nước. Dân quân Bolivar, được bố trí ở khắp các khu phố, thể chế nhà nước và nơi làm việc, cam kết bảo vệ “cuộc cách mạng Bolivar” của ông Chávez và duy trì lòng trung thành với chế độ.
Các nhóm vũ trang khác, mà nhiều nhóm trong số này cùng chia sẻ hệ tư tưởng của chính quyền, sẽ cung cấp thêm sự hỗ trợ cho chế độ. Các nhóm bán quân sự ở đô thị, với hệ tư tưởng tuân theo chủ nghĩa xã hội thế kỷ 21 của ông Chávez có liên hệ trực tiếp với nhà nước, thường hành động theo lệnh của ông Maduro, tham gia các hoạt động trấn áp phần tử chống đối chính trị. Các nhóm vũ trang thân chính phủ này được nhà nước tài trợ và được miễn trừ gần hết trách nhiệm để hoạt động bên lề, thậm chí là bên ngoài vòng pháp luật. Tương tự, các nhóm du kích cánh tả Colombia đã tìm được nơi trú ẩn an toàn ở vùng nông thôn Venezuela nhiều khả năng sẽ tiếp tục chiến đấu, chính vì sự tồn tại của họ gắn liền với sự tồn tại của chủ nghĩa Chávez trong chính quyền.
Quy mô quân đội của Venezuela là như vậy, nhưng trang thiết bị quân sự của họ lại được cho là xuống cấp nghiêm trọng. Việc bảo trì phi đội Su-30MK2 không được thực hiện đều đặn. Ít nhất 3 trong số 24 máy bay của Venezuela đã bị rơi, trong khi phụ tùng thay thế cho các động cơ và hệ thống điện tử hàng không của Nga lại rất khan hiếm. Xe tăng T72B, xe chiến đấu BMP-3, pháo Msta-S và bệ phóng tên lửa Smerch của quân đội cũng gặp khó khăn trong khả năng sẵn sàng chiến đấu do thiếu nhiên liệu, hạn chế về huấn luyện và tình trạng “chảy máu” phụ tùng diễn ra trong nhiều năm. Hải quân chỉ có một khinh hạm nhỏ và một tàu ngầm Type-209 còn hoạt động được, và mặc dù còn một số tàu hộ tống trên giấy tờ, nhưng chúng chỉ được trang bị vũ khí hạng nhẹ và thiếu các hệ thống phòng không hiện đại.
Bất chấp điều kiện như vậy, lực lượng vũ trang Venezuela vẫn duy trì mạng lưới phòng không với số lượng đáng kể, gồm khoảng chục khẩu đội S-300, nhiều hệ thống Buk, Pechora và một lượng lớn hệ thống tên lửa phòng không vác vai Igla-S. Kết hợp với địa hình hiểm trở và những trung tâm đô thị đông dân cư ở Venezuela, các hệ thống này có thể giúp Caracas gây khó khăn cho các hoạt động không quân của Mỹ, đặc biệt là trong những giờ đầu của cuộc xung đột.
Về mặt chính trị, lực lượng vũ trang Venezuela vẫn gắn bó chặt chẽ với chính quyền ông Maduro một phần do các biện pháp chống đảo chính được thực hiện trong hơn 2 thập kỷ qua, như các quyết định thăng chức mang ý nghĩa chính trị, thanh trừng các sĩ quan bị cho là bất trung, cũng như hành vi làm giàu bất chính, từ khai thác vàng đến buôn bán ma túy. Bộ trưởng Quốc phòng Venezuela Vladimir Padrino López đã giữ nhiều chức vụ trong hơn 11 năm qua, cho thấy tương lai của ông cũng gắn liền với Tổng thống Maduro.
Điều trớ trêu là cấu trúc cồng kềnh và bị chính trị hóa quá mức như vậy, với sự chồng chéo về quyền hạn và dư thừa một cách có chủ ý, lại tạo ra một đội ngũ lãnh đạo ưu tú, vượt qua nhiều cuộc khủng hoảng. Tuy vậy, cấu trúc đó cũng làm suy yếu hiệu quả hoạt động, sáng kiến chiến thuật và khả năng duy trì các hoạt động quân sự thông thường do việc nhấn mạnh lòng trung thành hơn là năng lực và sự chồng chéo trong các chuỗi mệnh lệnh.
Khả năng chống trả
Một chiến lược không kích của Mỹ có thể sẽ bắt đầu bằng việc tấn công các hệ thống phòng không, căn cứ không quân, cơ sở chỉ huy và kiểm soát, cũng như các đầu mối hậu cần quan trọng của Venezuela. Lực lượng vũ trang Venezuela dường như biết rõ trình tự này và có vẻ như đã có sự chuẩn bị.
Chiến lược phòng không của Venezuela phụ thuộc rất nhiều vào sự phân tán, nguy trang, tính cơ động và việc sử dụng mồi nhử. Các hệ thống S-300 và Buk, dù rất mạnh mẽ trên lý thuyết, nhưng được bảo trì không đồng đều và thiếu sự tích hợp dày đặc cũng như khả năng dự phòng radar thường thấy ở các mạng lưới phòng không tương đương. Dù vậy, hệ thống phòng không của Venezuela được cho là vẫn có thể gây rủi ro đáng kể trong những giờ đầu tiên hoặc thậm chí vài ngày đầu, đặc biệt xung quanh các trung tâm đô thị và chiến lược lớn như Caracas, Maracay và Puerto La Cruz.
Các đội Igla-S cơ động rải rác khắp địa hình đô thị sẽ làm tăng thêm độ phức tạp trong việc nhằm mục tiêu, đặc biệt là đối với máy bay hoặc trực thăng bay tầm thấp. Tuy nhiên, khả năng sẵn sàng và chất lượng kỹ thuật của mạng lưới phòng không Venezuela được cho là rất thấp, không thể sống sót sau một chiến dịch ném bom kéo dài. Một khi radar cố định và đầu mối chỉ huy bị phá hủy, hiệu quả của các hệ thống còn lại sẽ giảm đáng kể.
Không quân Venezuela được cho là chủ yếu dựa vào Su-30MK2, một vài chiếc trong số này đã được trang bị tên lửa chống hạm Kh-31. Phi đội này nhỏ và bị hạn chế bởi các vấn đề về bảo trì, nhưng về mặt lý thuyết, những máy bay này vẫn có thể thực hiện các cuộc tấn công mang tính cơ hội nhằm vào tàu chiến Mỹ, nhất là nếu Mỹ phân tán lực lượng. Đồng thời, những cuộc tấn công như vậy có thể chẳng khác gì nhiệm vụ tự sát: Hệ thống cảnh báo và kiểm soát trên không của Mỹ, may bay F-35 và các tàu khu trục trang bị hệ thống Aegis mang lại cho Mỹ lợi thế áp đảo trong việc phát hiện, nhắm mục tiêu và đánh chặn.
Dù không thể bảo vệ không phận của mình trong thời gian dài, nhưng lực lượng vũ trang Venezuela vẫn có thể gây ra tổn thất về thời gian, kinh tế và rủi ro ngay từ đầu cuộc xung đột, làm tăng phí tổn chính trị và tác chiến của hành động cưỡng ép từ phía Mỹ. Sau khi hầu hết hệ thống phòng không bị vô hiệu hóa, Venezuela được cho là sẽ chuyển sang chiến thuật sinh tồn bất đối xứng bằng cách di dời ban lãnh đạo đến các cơ sở kiên cố hoặc ngầm, huy động lực lượng dân quân, bán quân sự và các đơn vị Vệ binh quốc gia để kiểm soát nội bộ, chuẩn bị cho kịch bản chiếm đóng và nổi dậy.
Tình báo và phản gián
Khả năng chống lại hoạt động bí mật của Mỹ ở Venezuela không dựa nhiều vào sự tinh vi về mặt kỹ thuật mà chủ yếu dựa vào khả năng phát hiện sớm. Chính quyền này được cho là đã xây dựng hệ sinh thái phản gián dày đặc, tập trung vào Tổng cục Phản gián quân sự, Cơ quan Tình báo quốc gia Bolivar, các đơn vị tình báo trong lực lượng Vệ binh quốc gia và các cố vấn tình báo Cuba lâu năm. Dù thiếu tình báo về công nghệ tiên tiến, nhưng họ vẫn bù đắp được bằng mạng lưới tình báo con người rộng khắp, nằm sâu trong các thể chế nhà nước, lực lượng an ninh và xã hội.
Nếu Mỹ cố gắng tiến hành phá hoại bí mật hoặc đột kích đặc nhiệm, phản ứng của chính quyền có thể sẽ ưu tiên phơi bày và tung tin công khai, chứ không gây rối lặng lẽ. Việc bắt giữ công khai, ép buộc nhận tội và lan truyền thông tin nhanh chóng qua truyền thông nhà nước sẽ là công cụ để tước đi tính chất bí mật của các tác nhân ngầm. Mục tiêu sẽ là răn đe bằng phương thức công khai, biến hành động bí mật thành một sự kiện chính trị làm tăng rủi ro cho những kẻ cộng tác và xóa bỏ ranh giới giữa sự can thiệp của nước ngoài với sự phản đối trong nước. Chiến lược dựa trên sự phơi bày này được củng cố bởi hoạt động thông tin mạnh mẽ, trong đó các hoạt động bí mật bị coi là bằng chứng về sự gây hấn của Mỹ.
Cuối cùng, môi trường pháp lý và thể chế của Venezuela sẽ hạ ngưỡng phá vỡ các hoạt động bí mật. Quyền hạn khẩn cấp, luật chống khủng bố và việc thường xuyên sử dụng quyền tài phán quân sự đối với dân thường cho phép chế độ nhanh chóng hành động nhằm vào các mạng lưới bị nghi ngờ và ít được giám sát. Lực lượng dân quân và các nhóm vũ trang không giỏi chiến đấu, nhưng họ lại hiệu quả trong vai trò cung cấp thông tin, giám sát và thực thi pháp luật ở cấp khu phố, mở rộng phạm vi theo dõi của cả nước. Cái giá phải trả sẽ là tình trạng bóp méo thông tin tình báo và tổn thất uy tín, nhưng từ quan điểm của chính quyền, chiến lược này sẽ được coi là thành công nếu nó làm tăng chi phí hoạt động, chính trị và đạo đức Mỹ phải chịu khi thực hiện hành động bí mật với Venezuela.
Tóm lại, trong kịch bản có thể xảy ra về một cuộc đối đầu giữa Mỹ và Venezuela, thực tế là mặc dù Venezuela không thể thắng trong một cuộc chiến thông thường, nhưng họ có thể biến sự can thiệp của Mỹ thành một canh bạc tốn kém, bấp bênh và đầy rủi ro chính trị.

Mỹ muốn “phong tỏa mềm” dầu mỏ Venezuela?
Vận tải cơ Mỹ ồ ạt đưa binh sĩ, thiết bị đến vùng Caribe giữa căng thẳng với Venezuela