Chiêu trò tinh vi biến “tiền bẩn” thành “tiền sạch”
Để hợp thức hóa nguồn tiền bất hợp pháp, các đối tượng lừa đảo ngày càng tinh vi như thuê, mượn tài khoản của người khác; góp vốn, mua bán bất động sản hoặc ký hợp đồng khống, thậm chí là mua tiền điện tử sau đó quy ra tiền Việt Nam. Thông qua những chiêu thức này, “tiền bẩn” được chuyển hóa thành các khoản đầu tư hay tài sản có vẻ hợp pháp, làm mờ manh mối và gây khó khăn lớn cho công tác điều tra.
Những màn “rửa tiền” đỉnh cao
Trên thực tế, các đối tượng lừa đảo thường vận dụng chiến thuật lồng tiền bẩn vào các hoạt động hợp pháp hoặc che giấu quyền sở hữu thực sự. Khi giao dịch có vẻ tuân thủ pháp luật (hóa đơn, hợp đồng, báo cáo thuế). Vì thế sẽ ít bị nghi ngờ và dễ hòa nhập vào nền kinh tế hợp pháp, từ đó giảm rủi ro bị phát hiện.

Một trong những màn rửa tiền “xuất sắc” phải kể đến đối tượng Vũ Thị Thanh, sinh năm 1988, trú tại Nam Định (cũ). Cuối năm 2024, Thanh đã bị VKSND TP Hà Nội truy tố về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Rửa tiền”. Điều đáng nói, Thanh chỉ là đối tượng không nghề nghiệp và từng giúp việc cho gia đình chị M., ở quận Long Biên (cũ) một thời gian ngắn.
Trong thời gian giúp việc, Thanh biết gia đình chị M. kinh tế khá giả nên đã lập ra nick Facebook có tên là “Thanh vũ” sau đó bịa ra các thông tin gian dối như: là con của chủ tịch HĐQT doanh nghiệp, có chồng là phi công của Hãng hàng không Vietnam Airlines, quen biết nhiều chủ đầu tư dự án nên mua được các căn hộ giá rẻ.
Thời gian đó, Thanh lên mạng tìm các dự án bán căn hộ, gửi toàn bộ thông tin cho chị M. rồi đặt vấn đề hỏi chị M. nếu muốn mua các căn hộ trong dự án, Thanh sẽ mua giúp với giá ưu đãi, rẻ hơn nhiều so với giá thị trường. Do tin tưởng thông tin Thanh đưa ra là thật, chị M. đã đồng ý mua nhà với mục đích bán kiếm lời. Để tránh bị phát hiện, Thanh bảo chị M. chuyển tiền mua nhà qua tài khoản của một người tên là Thắm. Tính từ ngày 1/4 đến 26/10/2022, Vũ Thị Thanh đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tổng số hơn 35 tỷ đồng của chị M. dưới hình thức mua các căn hộ.
Số tiền lừa đảo sau khi được chuyển vào tài khoản của chị Thắm, Thanh yêu cầu chị này chuyển sang tài khoản đứng tên mình. Từ đó, toàn bộ khoản tiền chiếm đoạt được từ chị M. được Thanh sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau: gửi cho một giám đốc công ty vận tải để mua xe ben, đưa 3,6 tỷ đồng nhờ một người đàn ông mua đất.
Đặc biệt, để hợp thức hóa nguồn tiền bất chính, Nguyễn Thị Thanh đã chuyển 21 tỷ đồng cho Ngô Văn Quyền, giám đốc một công ty xây dựng, với danh nghĩa góp vốn đầu tư mua máy xay nghiền đá. Sau đó, ông Quyền sử dụng 14 tỷ đồng trong số này để mở 6 hợp đồng tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng. Tháng 7/2022, ông này tiếp tục dùng các hợp đồng trên làm tài sản thế chấp, vay 14 tỷ đồng rồi chuyển cho một công ty khác để mua máy xay nghiền đá.
Cơ quan điều tra xác định số tiền 21 tỷ đồng mà Thanh chuyển cho ông Quyền có nguồn gốc từ hành vi phạm tội và yêu cầu không được tất toán các hợp đồng tiết kiệm. Tuy nhiên, ông Quyền vẫn tiến hành rút toàn bộ số tiền. Ngày 6/3/2023, Nguyễn Thị Thanh ra đầu thú và đến 30/8/2024, ông Quyền bị bắt tạm giam.
Tương tự, mới đây, TAND TP Hà Nội cũng vừa đưa ra xét xử sơ thẩm nhóm đối tượng trong “đường dây” rửa tiền xảy ra năm 2024 trên địa bàn Hà Nội và một số tỉnh, thành trên cả nước. “Đường dây” rửa tiền này gồm 9 bị cáo.
Theo cáo trạng, tháng 9/2023, Ngô Duy Khánh (sinh năm 1998, trú tại xã Cẩu Ngang, Vĩnh Long) tham gia nhóm Facebook “Hội việc làm Mỹ Phước 123” và quen biết một tài khoản tên Oliver, người Campuchia (chưa rõ lai lịch). Oliver thuê Khánh mở và bán tài khoản ngân hàng với giá 4 triệu đồng/6 tài khoản. Sau đó, Khánh lôi kéo Hà Thị Trang (sinh năm 1994, ở xã Tân Nhựt, TP Hồ Chí Minh) cùng tham gia.
Trong khoảng từ tháng 9 đến tháng 11/2023, Khánh tự mở 6 tài khoản và rủ thêm 9 người khác mở được 32 tài khoản để bán cho Oliver, thu lợi 13 triệu đồng. Trang cũng mở 6 tài khoản, đồng thời đưa nhiều người đi mở thêm 23 tài khoản, chuyển lại cho Khánh, hưởng 8,5 triệu đồng.
Cũng trong khoảng thời gian đó, bà Lê Thị Ngọc T (sinh năm 1973, ở Hà Nội) bị một đối tượng giả danh nhân viên Sở Giao dịch Chứng khoán TP Hồ Chí Minh gọi điện dụ dỗ đầu tư qua ứng dụng BNK. Tin lời, bà T nạp hơn 3,5 tỷ đồng và bị chiếm đoạt. Cùng chiêu thức, thêm 6 nạn nhân khác cũng sập bẫy, tổng cộng 7 người bị lừa hơn 30,1 tỷ đồng.
Quá trình điều tra, Cơ quan Công an phát hiện nhiều tài khoản do Khánh và Trang cung cấp đã được dùng để nhận tiền lừa đảo. Đáng chú ý, sau khi chiếm đoạt hơn 30 tỷ đồng, nhóm tội phạm sử dụng dịch vụ rửa tiền qua “bên thứ ba” ở Campuchia, chuyển lòng vòng qua nhiều tài khoản ngân hàng.
Dòng tiền bất hợp pháp sau đó được đưa về nhóm của Trần Thị Linh (sinh 1993, ở Hà Nội) để “rửa”. Linh cung cấp các tài khoản ngân hàng trong nước - trong đó có 3 tài khoản mua từ Khánh và Trang để nhận tiền, rồi tiếp tục chuyển qua nhiều tầng lớp khác nhau nhằm che giấu dấu vết. Cuối cùng, số tiền được dùng mua tiền điện tử USDT từ các nhóm tại Việt Nam.
Theo đó, nhóm của Linh đã chuyển hơn 19,2 tỷ đồng đến tài khoản của Lê Văn Xuân, nhóm của Nguyễn Văn Tốn (sinh năm 1996, ở phường Hà Đông) Nguyễn Viết Lãm (sinh năm 1996, ở phường Tây Mỗ), và Nguyễn Thị Thanh Huyền (sinh năm 1999, ở phường Thạnh Mỹ Tây, TP Hồ Chí Minh), những đầu mối chuyên gom mua USDT với quy mô lớn.
Theo cáo trạng, các bị cáo Lê Văn Xuân (sinh năm 1985, ở phường Hoàng Mai), Tốn, Lãm và Huyền đều tham gia kinh doanh USDT tự do, không đăng ký công ty, giao dịch chủ yếu qua mạng xã hội như Zalo, Telegram, thanh toán VND qua các tài khoản ngân hàng thuê hoặc mua, rồi dùng ví điện tử để luân chuyển USDT.
Từ 25/10/2023 đến 24/1/2024, các bị cáo nhiều lần rửa tiền bằng cách bán USDT cho nhóm Linh. Trong đó, Xuân đã rửa hơn 2,17 tỷ đồng, hưởng lợi hơn 860 triệu đồng; Huyền rửa hơn 7,9 tỷ đồng, thu lợi hơn 1,7 tỷ đồng (có thuê người làm kế toán với lương 7 triệu đồng/tháng); nhóm của Lãm tham gia rửa hơn 6,9 tỷ đồng, lãi hơn 2,8 tỷ đồng; còn nhóm của Tốn rửa 1,23 tỷ đồng, hưởng lợi hơn 244 triệu đồng.
Nói đến những vụ án rửa tiền với số lượng “khủng” không thể không nhắc đến vụ án khai thác quặng trái phép tại Lào Cai. Cụ thể, cơ quan tố tụng đã phơi bày thủ đoạn rửa tiền tinh vi của Nguyễn Mạnh Thừa - Giám đốc Công ty TNHH Xây dựng thương mại Lilama. Từ năm 2013 đến 2015, Thừa thu về hơn 451 tỷ đồng từ việc khai thác và bán hơn 1,3 triệu tấn quặng apatit. Sau khi trừ chi phí, số tiền thu lợi bất chính lên tới hơn 177 tỷ đồng.
Để hợp thức hóa khoản tiền khổng lồ này, Thừa thỏa thuận mượn tài khoản ngân hàng của 12 cá nhân từng được Công ty Lilama thuê vận chuyển đất đá, quặng. Dưới sự chỉ đạo của Thừa, kế toán công ty lập khống hợp đồng, biên bản nghiệm thu, nâng giá cước và khối lượng vận chuyển. Từ đó, hơn 182 tỷ đồng được chuyển vào tài khoản của các cá nhân nói trên, trong khi thực tế họ chỉ nhận khoảng 5,6 tỷ đồng tiền công.
Phần chênh lệch hơn 177 tỷ đồng sau đó được các cá nhân rút tiền mặt, giao lại cho nhân viên Lilama rồi chuyển về tay Thừa. Cơ quan tố tụng xác định đây là khoản thu lời bất chính và đã ra quyết định tịch thu, sung công quỹ Nhà nước.

Thủ đoạn ngày càng tinh vi
Một trong những thủ đoạn phổ biến của việc hợp thức hóa tiền lừa đảo thành tiền sạch là thuê, mua tài khoản ngân hàng của người khác. Cụ thể, các đối tượng thường đăng tải thông tin trên các diễn đàn, hội nhóm mạng xã hội về việc thuê, mua tài khoản ngân hàng hoặc tiếp cận với những người lao động có thu nhập thấp, người thiếu hiểu biết về pháp luật hoặc sinh viên các trường cao đẳng, đại học nhờ thuê mở tài khoản ngân hàng để nhận tiền công với giá khoảng từ 500.000-1.000.000 đồng. Sau khi mở tài khoản, chủ tài khoản phải bàn giao thông tin đăng nhập Internet banking, SIM điện thoại đăng ký tài khoản, thẻ ngân hàng... cho đối tượng.
Các tài khoản thanh toán không chính chủ này được sử dụng chủ yếu cho mục đích luân chuyển dòng tiền trong các vụ án, gây khó khăn cho công tác điều tra, xác minh, xử lý của lực lượng chức năng.
Tội phạm trả tiền thuê hoặc mua tài khoản của người thật (cá nhân, doanh nghiệp vỏ bọc) để nhận tiền chiếm đoạt. Người cho thuê có thể biết hoặc không biết bản chất nguồn tiền. Các tài khoản này sau đó được chuyển tiếp nhiều lần để “làm loãng” nguồn gốc.
Ngoài ra, các đối tượng cũng thường dùng phương thức lấy tiền lừa đảo để mua bất động sản hay những vật dụng có giá trị như: ôtô, tàu thuyền, tác phẩm nghệ thuật... rồi bán lại, thế chấp vay hoặc chuyển nhượng qua nhiều người để che giấu nguồn gốc. Giá có thể được thổi lên hoặc thỏa thuận “giá ngầm” để chuyển giá trị thực. Biểu hiện của phương thức rửa tiền này thường giao dịch mua bán giá không tương xứng với thị trường, chuyển nhượng nhiều lần trong thời gian ngắn, bên bán/bên mua là doanh nghiệp mới lập không hoạt động thương mại rõ ràng, thanh toán bằng nhiều nguồn tài khoản khác nhau.
Hình thức thông qua doanh nghiệp bình phong và hợp đồng khống cũng được các đối tượng sử dụng rất nhiều. Cụ thể, chúng sẽ thành lập công ty “vỏ” (không hoạt động thực chất) dùng để xuất hóa đơn, ký hợp đồng khống, ghi nhận doanh thu/chi phí giả để hợp thức hóa dòng tiền. Các dịch vụ kế toán, tư vấn hoặc “đại lý” có thể tiếp tay. Biểu hiện của các công ty bình phong này thường có báo cáo tài chính bất thường, hợp đồng với bên không rõ năng lực, giao dịch lặp lại với cùng một nhóm pháp nhân, thiếu chứng từ vận hành thực tế.

Trong vụ án xét xử đường dây rửa tiền trên địa bàn TP Hà Nội và một số tỉnh, thành cả nước nói trên, các đối tượng đã dùng phương thức chuyển tiền VND vào các tài khoản mua USDT/usdt trên sàn P2P hoặc qua các “đầu mối” mua bán crypto không chính thức, sau đó luân chuyển, tách lớp qua ví điện tử, sàn nước ngoài, rồi quy đổi lại thành tiền “sạch”.
Rửa tiền không chỉ là thủ đoạn tinh vi để hợp pháp hóa khoản thu bất chính, mà còn là hành vi làm xói mòn sự minh bạch của nền kinh tế và phá vỡ niềm tin xã hội. Từ việc mượn tài khoản ngân hàng, lập hợp đồng khống cho đến đổ tiền vào bất động sản, tài sản giá trị hay tiền ảo, các đối tượng phạm tội đều nhằm mục đích cuối cùng: biến “tiền bẩn” thành “tiền sạch” để che giấu dấu vết.
Điều này đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với cơ quan quản lý, ngân hàng, doanh nghiệp và cả người dân trong việc nâng cao cảnh giác, siết chặt kiểm soát, minh bạch giao dịch và phối hợp đồng bộ trong công tác phòng chống rửa tiền. Bởi, chỉ khi dòng tiền được giám sát chặt chẽ, hệ thống tài chính mới thực sự an toàn, công bằng, tạo môi trường lành mạnh cho những hoạt động kinh doanh chân chính.