"Kế hoạch Marshall" cho Ukraine?

Thứ Hai, 16/05/2022, 09:28

Được đưa ra vào năm 1947, 2 năm sau khi Thế chiến 2 kết thúc, Kế hoạch Marshall do Mỹ bảo trợ bao gồm một gói viện trợ tài chính hơn 13 tỷ USD (khoảng 160 tỷ USD theo thời giá hiện nay) từ năm 1948 đến 1951 cho công cuộc tái thiết hậu chiến tranh. Và, bây giờ, người ta đã bắt đầu đặt câu hỏi tổng "hóa đơn" thiệt hại vì chiến tranh của Ukraine đến nay là bao nhiêu?

Các nhà nghiên cứu từ Trung tâm nghiên cứu chính sách kinh tế (CEPR) ước tính tổng chi phí cho việc khôi phục Ukraine từ 220 tỷ USD đến 540 tỷ USD. Mức tối đa gấp hơn 3 lần GDP trước cuộc chiến của nước này và mức tối thiểu gấp hơn 4 lần ngân sách viện trợ nước ngoài của Liên minh châu Âu (EU). Một số nhà kinh tế ở Kiev cho rằng con số có thể còn cao hơn, vào khoảng 1.000 tỷ USD. Liên Hợp quốc cho biết 90% dân số Ukraine có thể "rơi vào cảnh đói nghèo và cực kỳ dễ bị tổn thương". Tuy nhiên, liệu một Kế hoạch Marshall cho Ukraine có thực sự ngăn chặn được thảm họa kinh tế của đất nước này và liệu nó có phù hợp không thì lại chưa ai chắc chắn.

Nghị quyết 2005 của Liên Hợp quốc cho rằng, các quốc gia "cần nỗ lực thiết lập các chương trình quốc gia cho việc bồi thường thiệt hại chiến tranh và sự trợ giúp khác cho các nạn nhân trong trường hợp các bên gây thiệt hại không thể hoặc không sẵn sàng thực hiện các nghĩa vụ của mình". Nghị quyết này thiết lập nguyên tắc rằng nếu quốc gia xâm lược không thể hay không sẵn lòng bồi thường thiệt hại chiến tranh, khi đó các cơ chế khác có thể được áp dụng. Vậy những lựa chọn khác này là gì?

Siêu du thuyền Scheherazade trị giá 700 triệu USD được cho là của giới nhà giàu Nga bị giới chức Italy ra lệnh tịch thu

Thứ nhất là khoản viện trợ song phương dưới hình thức viện trợ không hoàn lại, các khoản vay, bảo lãnh khoản vay và đóng góp bằng hiện vật, một số trong đó có thể được quản lý thông qua các cơ quan như USAid (Mỹ) hay Sida (Thụy Điển).

Thứ hai là viện trợ đa phương từ Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu, Ngân hàng Đầu tư châu Âu và các thể chế khác chuyên về viện trợ phát triển, thường dưới hình thức các khoản vay.

Liên Hợp quốc và các tổ chức nhân đạo như Tổ chức Thầy thuốc không biên giới có thể cứu trợ khẩn cấp, trong khi Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) có thể tài trợ ngắn hạn. Liên minh châu Âu cũng có thể thiết lập - hoặc đóng góp vào - quỹ ủy thác để tái thiết Ukraine, hay sử dụng các điều khoản đặc biệt giúp Ukraine tiếp cận các quỹ cơ cấu dành cho các quốc gia EU.

Một bản kế hoạch chi tiết của CEPR cho việc tái thiết Ukraine được công bố hồi tháng 4 vừa qua, cho rằng nếu Ukraine được đặt vào quỹ đạo mà cuối cùng nước này trở thành thành viên của EU, thì khi đó điều quan trọng là viện trợ cần phải được quản lý theo một cách thức hoàn toàn nhất quán với các chính sách và thủ tục của EU. Cũng theo bản kế hoạch này, một cuộc tái thiết do EU dẫn dắt sẽ cung cấp không chỉ trợ giúp tài chính và xây dựng lại thủ đô của Ukraine về vật chất, mà nó có thể cung cấp một chiếc "mỏ neo" đáng tin cậy cho cải cách thể chế và niềm tin cho đầu tư tư nhân.

Tuy nhiên, có vấn đề với những sự lựa chọn này. Thứ nhất, nếu các nước phương Tây cung cấp hoàn toàn các khoản viện trợ không hoàn lại chứ không phải là các khoản vay, thì cuối cùng các nhà tài trợ sẽ trở nên mệt mỏi. Mặc dù người dân của các nước này chắc chắn có lòng trắc ẩn lớn đối với người tị nạn Ukraine nhưng sẽ khó có thể thuyết phục được họ rằng các thế hệ con cháu của họ sẽ phải trả tiền cho việc khôi phục một quốc gia khác, đặc biệt là quốc gia mà họ không xâm lược. Các dự án khôi phục với quy mô như thế này chưa bao giờ được cấp vốn một lần và thường phải kéo dài hàng thập kỷ. Nước Đức đã mất đến 92 năm để hoàn trả các khoản bồi thường cho Thế chiến 1.

Thứ nữa, ngay cả khi Ukraine tiếp nhận các khoản vay, chẳng hạn như khoản vay lãi suất thấp từ các thể chế tài chính châu Âu, điều này có thể đặt gánh nặng nợ nần thậm chí còn lớn hơn lên vai một quốc gia vốn đã lụn bại. Và, phương án này đưa đến một lựa chọn thứ 3: Liệu các quốc gia phương Tây có thể tịch thu và sung công các tài sản bị phong tỏa thông qua các biện pháp trừng phạt đối với các cá nhân hay không? Lực lượng đặc nhiệm "phong tỏa và tịch thu" của Ủy ban châu Âu đã thu giữ các du thuyền, máy bay trực thăng, tài sản và các tác phẩm nghệ thuật trị giá hàng tỷ USD của giới nhà giàu Nga và những nhân vật có liên hệ với Điện Kremlin.

Thế nhưng, liệu việc tịch thu có hợp pháp hay không phụ thuộc vào luật pháp của quốc gia thực hiện. Để vượt qua rào cản pháp lý này, ngày 27-4 vừa qua, Hạ viện Mỹ đã thông qua Luật Thu giữ tài sản để tái thiết Ukraine. Chỉ có 4 phiếu phản đối. Dự luật, hiện đã được chuyển lên Thượng viện, sẽ cho phép Tổng thống Biden tịch thu và thanh lý tài sản thuộc quyền sở hữu của các cá nhân bị trừng phạt, với số tiền được sử dụng cho các mục đích cụ thể.

Lựa chọn thứ tư là khai thác nguồn dự trữ ngoại hối bị đóng băng của Nga, trong đó chỉ riêng Pháp, Đức, Nhật Bản và Mỹ hiện nắm giữ khoảng 350 tỷ USD. Nhà kinh tế người Thụy Điển Anders Aslund cho rằng các thành viên nhóm G7 cần tỏ rõ với Điện Kremlin rằng họ càng gây nhiều thiệt hại, khoản trích từ hàng tỷ USD bị đóng băng để giúp Ukraine càng lớn. Nghị quyết 2005 của Liên Hợp quốc đem lại cơ sở cho hành động như vậy.

Lựa chọn thứ năm là sẽ tạo ra một nguồn doanh thu phù hợp hơn, là để Nga thanh toán các khoản bồi thường chiến tranh như một phần của thỏa thuận hòa bình. Đây có thể dưới hình thức áp thuế theo một tỷ lệ nhất định đối với doanh thu từ xuất khẩu của Moscow, như trường hợp xuất khẩu dầu của Iraq sau cuộc xâm lược Kuwait.

Nhưng, dù là kế hoạch gì đi nữa, thì cũng phải xuất phát từ nội lực. Con đường tái thiết Ukraine sẽ khó khăn và đòi hỏi phải có sự giám sát chặt chẽ. Điều quan trọng là nó phải bao gồm đổi mới thể chế và cải thiện sự quản trị. Các nhà quan sát như Aslund đã từng tỏ ra hết sức dè dặt về cam kết cải cách của Ukraine. Bản thân Ukraine đứng thứ 122 trong số 180 quốc gia về Chỉ số nhận thức tham nhũng so Tổ chức Công khai minh bạch quốc tế công bố.

Ngọc Lan (Tổng hợp)
.
.