George Doundoulakis - khi điệp viên là nhà khoa học

Chủ Nhật, 19/10/2025, 17:29

George James Doundoulakis (18/10/1921 - 17/3/2007) là một nhà vật lý kiêm quân nhân người Mỹ gốc Hy Lạp đã từng làm việc cho tình báo Anh trong thời Thế chiến II cùng với điệp viên Patrick Leigh Fermor (nhân viên của Cục chiến dịch chiến lược - OSS) và sau đó làm việc cho Cục tình báo chiến lược (OSS) ở Thessaly (Hy Lạp).

Doundoulakis nổi tiếng với 26 bằng sáng chế được Mỹ công nhận trong các lĩnh vực radar, điện tử và truyền hình băng hẹp. Doundoulakis còn được nhớ đến bởi ý tưởng treo ăng ten của kính viễn vọng vô tuyến Arecibo bằng cáp và tháp sau này em trai ông là Helias Doudoulakis được cấp bằng sáng chế việc này. Là một cựu binh được tặng thưởng trong Thế chiến II, Doundoulakis đã bí mật thành lập một tổ chức kháng chiến ngầm ở Crete mang tên gọi Cơ quan điều hành chiến dịch đặc biệt (SOE). Ông đào tẩu sang Ai Cập và gia nhập quân đội Mỹ, làm việc cho Văn phòng các dịch vụ chiến lược (OSS)...

George Doundoulakis - khi điệp viên là nhà khoa học -0
George James Doundoulakis, nhà vật lý kiêm điệp viên nổi tiếng của Cục tình báo chiến lược (OSS).

Hoạt động trong Thế chiến II

George Doundoulakis sinh ra ở thành phố Detroit (tiểu bang Michigan) có cha mẹ là người Hy Lạp nhập cư, cha là ông Demetrios, còn mẹ là bà Evanthia (nhũ danh Psaroudakis) Doundoulakis. Lên 4 tuổi, gia đình Doundoulakis di cư đến Crete (Hy Lạp) nhằm tiện chăm sóc người bà mù lòa đang sống ở làng Archanes. Gần làng có khu khai quật khảo cổ Minoan đặt tại Knosos, nơi mà nhà khảo cổ học người Anh (sau này là điệp viên SOE), John Pendlebury, phụ trách.

Năm 1941, ngoại trừ Crete còn thì cả Hy Lạp bị thất thủ trước Trục phát xít. Ngày 20/5/1941, lính dù Đức đã xâm chiếm đảo Crete trong trận đánh Crete. Tại trận đánh này, George Doundoulakis (viết tắt là G.D) đã hỗ trợ 2 sở chỉ huy quân đội Hy Lạp và Anh ở Archanes như thông dịch các thông cáo gửi từ những đồn quân sự khác nhau.  Sau khi người Anh bị đánh bại, số binh lính Anh không thể di tản được buộc phải đầu hàng hoặc lẩn trốn.

Khi Crete bị thất thủ, Montague Woodhouse đã được chỉ định làm thủ lĩnh SOE ở Crete thay thế cho John Pendlebury (ông này bị bọn Đức hành quyết ngay trong trận đánh). Khi phát hiện ra tài năng thông dịch tiếng Hy Lạp của G.D, Woodhouse liền tiếp cận ông. Woodhouse ra yêu cầu cho G.D phải tìm cách hỗ trợ SOE trong việc giấu và di tản binh lính Anh - những người bị bỏ lại ở Crete - và biết chắc rằng nếu bị quân Nhật phát hiện, G.D có thể sẽ mất mạng.

Dưới sự chỉ huy của “Monty” (bí danh của Woodhouse tại SOE), G.D đã thành lập một tổ chức kháng chiến đầu tiên ở Crete.  Cùng với người em trai Helias Doundoulakis và những bạn bè thân thiết, họ bắt đầu lùng sục khắp hòn đảo để tìm tân binh. Anh em nhà Doundoulakis đã tập hợp những cựu quân nhân và thường dân từ Heraklion và Lasithi. Sau khi Woodhouse rời đảo Crete, SOE đã thay thế ông bằng Thomas Dunbabin.

Những vụ phá hoại nguy hiểm dưới sự giám sát của G.D đã được thực hiện, chẳng hạn như vụ phá hủy sân bay Kastelli.  Cùng với bạn thân Kimon Zografakis và 2 lính biệt kích người Anh, G.D đã có thể dùng vật liệu nổ của họ để đốt 7 sân bay  và hàng trăm thùng nhiên liệu máy bay của bọn Đức. Thông qua tình nhân của một sĩ quan  Đức, G.D cũng lấy được thông tin tình báo hải quân và đã phá hủy một đoàn xe của Đức đang trên đường tiếp tế cho Thống chế Erwin Rommel và quân đoàn Phi Châu.

Sau chiến tranh, G.D được trao Huân chương vì lòng dũng cảm cho tự do của vua Anh.  Còn Thomas Dunbabin được quân đội Anh trao Huân chương dịch vụ xuất sắc. Cuối cùng Thomas Dunbabin cũng rời đi, và SOE đi theo ông cùng với điệp viên huyền thoại Patrick Leigh Fermor (người Creta gọi ông là “Mihalis” với sự tôn kính).  Mạng lưới tình báo của G.D phát triển vượt bậc. G.D cùng với Patrick Leigh Fermor và thủ lĩnh du kích Manolis Bandouvas đã nương náu trong các hang trên núi Ida (Thổ Nhĩ Kỳ) để dễ bề hoạt động.  

Sau khi đặt dưới quyền của SOE trong 2 năm, tổ chức ngầm của G.D ngày càng lớn mạnh và mở rộng hơn. Một dân địa phương người Creta muốn “tống tiền” G.D khi yêu cầu ông phải trả 1 triệu Drachma nếu không tin tức về tổ chức kháng chiến sẽ đến tay người Đức, và những người như Leigh Fermor sẽ bị bọn Đức tóm. G.D liền cử 2 người bạn thời trung học là Sifis Migadis và John Androulakis để đi “khử” kẻ phản bội, tuy nhiên họ đã chậm chân hơn Gestapo. Leigh Fermor thúc giục G.D lập tức bay ngay đến bờ biển phía Nam Crete để chờ SOE tiến hành di tản. Họ trốn thoát khỏi núi Ida (trong rặng núi Rethymno) cùng với những người khác trong tổ chức của G.D.

Sau khi náu mình trong các hang động suốt một tháng, họ được một tàu phóng ngư lôi của Anh cứu thoát ở phía Nam Tymbaki.  Cùng với 13 thành viên kháng chiến khác, tất cả đến Mersa Matruh (Ai Cập). Khi họ sắp lên tàu, G.D đã gặp lại Leigh Fermor và thủ lĩnh đảng phái Georgios Petrakis. Ông Petrakis đã quay lại Crete ngay trên cùng chuyến tàu chở anh em G.D trên đường đến Ai Cập vào ngày 7/6/1943.

Và 40 năm tiếp đó họ cũng không gặp lại Leigh Fermor nữa. Sau khi cập cảng Mersa Matruh, hai anh em nhà G.D cũng như những người bạn đồng chiến hữu được chở tới một tòa biệt thự của SOE đặt ở Heliopolis. Họ được người của SOE đưa đi đào tạo nghiệp vụ phá hoại theo lời khẩn cầu của Leigh Fermor, trong khi những người khác được đưa sang gia nhập quân đội lưu vong Hy Lạp đang ở Trung Đông.

Trước khi rời Crete, G.D đã chỉ thị cho Mikis Akoumianakis quyền chỉ huy tổ chức ngầm.  Mikis Akoumianakis đã nắm quyền điều hành mạng lưới tình báo Đồng Minh tại Heraklion và trở thành điệp viên Anh chủ chốt trong vùng suốt 3 năm cuối cùng của cuộc chiến. Sau đó cùng với Leigh Fermor và “Billy Moss”, G.D trở thành nhân vật then chốt trong vụ bắt cóc tướng Heinrich Kreipe ở đảo Crete.

George Doundoulakis - khi điệp viên là nhà khoa học -0
Kính viễn vọng vô tuyến Arecibo tại Puerto Rico, một phát minh của anh em nhà G.D.

Tham gia thành lập OSS

2 tháng huấn luyện tại biệt thự xa hoa của SOE ở Heliopolis (Cairo) đã kết thúc đột ngột khi G.D biết đến sự tồn tại của Cục dịch vụ chiến lược (OSS). G.D liền liên lạc với cơ quan tình báo Mỹ còn non trẻ, nơi sẽ trở thành thành tố quan trọng cho tương lai của anh em nhà ông. Với sự giúp đỡ của Leigh Fermor, G.D đã thông báo cho viên chỉ huy SOE về ý định gia nhập quân đội Hoa Kỳ.

Trước sự thất vọng của SOE, anh em nhà G.D đã rời đi với tư cách là đồng đội chiến đấu và cùng hy vọng đánh bại kẻ thù chung của họ. OSS đã biệt phái Đại úy James Kellis đi chiêu mộ anh em nhà G.D gia nhập quân đội Mỹ vào ngày 16/9/1943, họ được phân công vào OSS. Chỉ huy của họ là Thiếu tá John Vassos - nhà thiết kế công nghiệp lỗi lạc. Các điệp viên được huấn luyện bên trong một tòa cung điện biệt lập của quốc vương Farouk nằm dọc theo sông Nile (Ai Cập), một nơi có tên gọi là Ras el Kanayas. Hai anh em nhà G.D được đào tạo trong các nhánh Tác chiến tinh thần (MO) và Tác chiến đặc biệt (SO).  

Tác chiến đặc biệt do SOE triển khai đào tạo cho anh em nhà G.D gồm có nhảy dù, phá hoại, phòng thủ, vũ khí và lãnh đạo nhằm hỗ trợ cho các du kích hoặc khởi nghĩa nông dân. Còn tác chiến tinh thần thì bao gồm chiến tranh tâm lý (tâm lý chiến) và tuyên truyền.  Sau khóa đào tạo, G.D được phái tới Volos (Hy Lạp). Nhiệm vụ đó mang tên “Những người nuôi ngựa” là tập hợp của khoảng 7.000 quân khởi nghĩa cánh tả Hy Lạp tạo thành một lực lượng chiến đấu thống nhất. G.D đã cung cấp vũ khí, máy in, quần áo và vật tư cho đội quân bí mật của mình thông qua các căn cứ OSS đặt ở Thổ Nhĩ Kỳ.

G.D đã in và phân phát tờ rơi dành cho binh lính Đức và những người cộng tác với Hy Lạp nhằm phá hoại lòng tin của họ, đồng thời khuyến khích dân Hy Lạp kháng chiến. Họ đã gây ra thiệt hại nặng nề cho trung tâm vận tải đường sắt và vận chuyển hàng hải của Volos, góp phần gây nên sự sụp đổ nguồn tiếp tế của bọn Đức ở gần Athens.

Những cuộc tấn công liên tục vào hệ thống đường sắt và thông tin liên lạc Đức đã mang lại thành công vang dội. G.D được thăng hàm Trung sĩ nhất và được OSS trao thưởng Huân chương công trạng.  Người em trai được đào tạo tại trường gián điệp (Trại X ở Cairo) để thực hiện nhiệm vụ mật ở Salonica (Hy Lạp).  Ở đó Helias đã thành lập một doanh nghiệp bình phong trên nền một nhà máy bị đánh bom vốn thuộc sở hữu của người Do Thái Hy Lạp - họ đã chạy thoát trước sự đàn áp của Đức Quốc xã. Từ tháng 4 đến tháng 12/1944, Helias vẫn ở Salonica và liên tục gửi các thông điệp vô tuyến được mã hóa cho nhánh OSS - Cairo về các đợt hành quân của bọn Đức.  

Các hoạt động hậu chiến

G.D dành phần thời gian còn lại để sinh hoạt tại Câu lạc bộ đồng quê Quốc hội ở Bethesda (tiểu bang Maryland) một nơi vốn được “Wild Billy” Donovan (OSS) trưng dựng làm bãi tập huấn. Sau khi xuất ngũ, G.D định cư ở New York. Ở Brooklyn, G.D nhận bằng cử nhân vật lý của Đại học Bách khoa Brooklyn vào năm 1953 và tiếp tục lấy bằng thạc sĩ khoa học vật lý tại Đại học Bách khoa Brooklyn dưới sự dìu dắt của nhà vật lý kiêm nhà tinh thể học tia X lừng danh, Paul Peter Ewald, vào năm 1955.

Kể từ đó G.D tìm thấy thêm niềm đam mê của mình trong các lĩnh vực điện tử, vật lý vô tuyến, radar và truyền hình đang phát triển. Được hướng dẫn bởi Ira Kamen (một trong những kỹ sư điện xuất sắc nhất tại thành phố New York) mà G.D đã có chỗ đứng vững chắc khi đảm nhận việc giảng dạy điện tử tại Học viện RCA. Năm 1956, G.D và Ira Kamen đã nộp đơn xin cấp bằng sáng chế đầu tiên tại Hoa Kỳ. 

Thế rồi G.D được tập đoàn General Bronze ở Garden City (New York) thuê để đứng đầu Nhánh Nghiên cứu và Phát triển (R&D). Lúc đó, General Bronze đang dẫn đầu thị trường thiết kế ăng-ten thương mại. Cùng với Stanley Gethin, G.D đã đăng ký những dự án liên quan đến ăng ten và radar cho General Bronze.

Với tư cách là người đứng đầu R&D của General Bronze, G.D được Đại học Cornell thông báo về ý định xây dựng một kính viễn vọng vô tuyến. G.D đến Cornell vào đúng ngày Giáo sư William Gordon công bố về thiết kế và việc xây dựng trạm ăng-ten đặt ở Arecibo (Puerto Rico). Ông Gordon (người lãnh đạo dự án tại Đại học Cornell) cho rằng giá đỡ cho đường truyền ăng ten (còn gọi là “mắt”) phải là một cột tháp cao 152m đặt ở giữa bộ phản xạ khoảng 300m. Nhìn thấy một phương pháp đơn giản hơn với nguồn cấp ăng-ten treo nên G.D đã bắt tay với ông Zachary Sears (người chỉ đạo Thiết kế nội thất tại Tập đoàn Digital B & E ở New York) để nghiên cứu ý tưởng về thiết kế ăng-ten của Đại học Cornell.

G.D đã đề xuất về một thiết kế mang tính cách mạng bằng cách treo nguồn cáp dữ liệu từ những dây cáp được kết nối với các tháp. Thay vì có một tòa tháp khổng lồ ở giữa gương phản xạ thì thiết kế của G.D sẽ tiết kiệm hàng triệu đô la chi phí xây dựng. G.D đã trình bày đề xuất của mình tại Đại học Cornell về một hệ thống treo nguồn cấp, nó là một giàn hình xuyến được treo bởi 4 dây cáp từ 4 tháp nhằm tạo ra một đường ray dọc theo cạnh của nó dùng để định vị nguồn cấp dữ liệu theo phương vị.

Có một giàn khung thứ 2 dạng vòm được treo bên dưới và xoay 360 độ trên những thanh ray này. Vòm cung cấp các thanh ray mà bộ phận đỡ nguồn cấp sẽ di chuyển trên đó nhằm bảo đảm định vị theo độ cao của nguồn cấp. Một đối trọng sẽ di chuyển đối xứng ngược với vị trí cấp nguồn nhằm đảm bảo độ ổn định tổng thể. Hệ thống đề xuất cuối cùng cũng được dùng cho ăng-ten Arecibo. Bằng sáng chế đã được nộp vào ngày 11/9/1961.

Ngày 13/9/1960, Văn phòng bằng sáng chế và nhãn hiệu Hoa Kỳ đã cấp bằng phát minh cho Helias Doundoulakis vì đã thiết kế hệ thống treo của kính viễn vọng vô tuyến. Hai người khác được chuyển nhượng bằng sáng chế là những người bạn thân William J. Casey (cựu giám đốc CIA dưới triều đại Ronald Reagan) và luật sư Constantine Michalos. Sau khi siêu bão Maria năm 2017 làm hư hại đài quan sát, và nó cũng bị ảnh hưởng bởi các trận động đất trong 2 năm 2019, 2020, nên đến ngày 19/11/2020, Quỹ khoa học quốc gia Mỹ (NSF) thông báo họ sẽ ngừng hoạt động và tháo dỡ kính viễn vọng.

Lúc 7 giờ 55 phút sáng ngày 1/12/2020, kính viễn vọng vô tuyến Arecibo bị phá hủy. Về đời tư của cựu điệp viên huyền thoại. Ông kết hôn với bà Chrysanthe "Chris" (Markomihalakis) ở Brooklyn (New York), sau chiến tranh họ tái định cư ở North Bellmore (New York) và có 2 con trai, 1 con gái, và 3 đứa cháu. Ông qua đời ngày 17/3/2007 và được an táng theo nghi thức quân đội tại nghĩa trang Greenfield (Uniondale, New York).

Phan Bình (Tổng hợp)
.
.