Hồ sơ cuộc thiên di tìm vàng lớn nhất thế giới

Thứ Hai, 10/10/2022, 20:48

Tháng 1/1848, một công nhân xưởng cưa ở California, Mỹ tình cờ tìm thấy nhiều mẩu vàng ở con suối Bonanza. Chỉ trong thời gian ngắn, gần một triệu người đã kéo về đây với hy vọng đổi đời. Năm 1855, mỏ vàng California bắt đầu cạn kiệt. Đến 1896, vàng lại được tìm thấy ở Yukon và đó cũng là những cuộc thiên di vì vàng lớn nhất thế giới…

Nhặt vàng ở Klondike

Ngày 16/8/1896, George Carmack, nhà thám hiểm người Mỹ cùng hai thanh niên bộ tộc Gwitchin là Skookum Jim và Tagish Charley đi dọc theo sông Klondike thuộc vùng lãnh thổ Yukon để tìm chỗ câu cá hồi. Họ dựng trại cạnh con suối Rabbit Creek và khi Skookum Jim thả dây câu xuống, anh ta nhìn thấy dưới lòng suối có một vật hình dạng sần sùi lấp lánh màu vàng. Tò mò, Skookum Jim vớt lên thì mới biết đó là vàng. Kiểm tra xung quanh, họ phát hiện thêm nhiều quặng vàng nằm lộ thiên trên mặt đất hoặc ẩn dưới lớp đất chỉ sâu vài tấc. Và mặc dù cả ba đã cam kết giữ bí mật nhưng khi George Carmack đến tòa thị chính thành phố Whitehorse, thủ phủ Yukon để đăng ký quyền sở hữu đất đai, cái tin suối Rabbit Creek có vàng lan nhanh như đám cháy, đến nỗi địa danh Rabbit Creek biến thành Bonanza Creek (là tên của một vùng ở bang California, nơi vàng được tìm thấy nhiều nhất).

vang1.jpg -0
Dòng người vượt qua đèo Chilkoot để đến nơi có vàng.

Sau vài tháng đào đãi, Carmack cùng Skookum và Tagish mỗi người kiếm được trên dưới 1 triệu USD tiền bán vàng. Đến cuối năm, số người đổ về Rabbit Creek đã lên tới 150.000, hầu hết là từ Mỹ trong lúc dân số Yukon lúc ấy chỉ khoảng 10.000 người bản địa, sống rải rác trên một diện tích gần nửa triệu km2.  Để đến được nơi này, người tìm vàng xuất phát bằng tàu từ những cảng ở tây bắc Thái Bình Dương. Khi cập cảng Skagway hoặc Dyea nằm trên bờ biển Alaska, một số phải đối mặt với bọn lừa đảo rằng hãy trả tiền cho chúng, chúng sẽ dẫn họ đến nơi có vàng nhưng khi cầm được tiền, chúng trốn mất.

Nếu may mắn không bị lừa, người đào vàng phải chọn 1 trong 2 tuyến đường bộ xuyên qua dãy núi Đèo Trắng dài 78km hoặc đèo Chilkoot dài 54km để đến Klondike. Đèo Trắng ít dốc hơn nhưng lởm chởm đá, rất khó vượt qua, chưa kể nếu qua được, họ sẽ gặp “Đường mòn ngựa chết” với hàng nghìn bộ xương động vật nằm rải rác và khí hậu cực kỳ khắc nghiệt. Trong khi đó đèo Chilkoot lại có những đoạn dốc cao và quanh co đến nỗi các con ngựa thồ hàng không thể định hướng. Những người đào vàng buộc phải dẫn từng con qua những lối đi phủ đầy tuyết và phải mất vài chục chuyến mới có thể vận chuyển hết đồ đạc qua đèo. Ngay cả khi họ đã thành công, họ vẫn phải thuê những chiếc thuyền mỏng manh của thổ dân rồi vượt 800 km theo sông Yukon để đến cánh đồng vàng Klondike.Trong cuốn “The Klondike Gold Rush - Đổ xô tìm vàng ở Klondike”, nhà văn Robret W. Service và cũng là dân tìm vàng viết: “Hành trình thường kéo dài nửa năm. Họ đi thành từng nhóm 20 hoặc 30 người để hỗ trợ lẫn nhau. Người nào cũng mang trên vai 30, 40 kg hành lý gồm lều bạt, chăn mền, quần áo ấm, súng đạn, lương thực, dao, cuốc xẻng, máng đãi vàng. Không ít người chẳng may bỏ mạng vì tuyết lở, bệnh tật, thương tích, kể cả chết đói nhưng cái viễn cảnh trở nên giàu có đã là liều thuốc tăng lực, giúp họ tiến về phía trước…”. 

vang2.jpeg -0
Xúc đất lên là thấy vàng.

Khát vọng đổi đời

Cuối năm 1897, từ 500m2 đất được nhóm Carmack, Skookum và Tagish đăng ký ban đầu đã trở thành 40km2  dọc theo sông Klondike bởi những người đến sau. Chưa hết, một số người đến sau lại tìm thấy vàng ở con suối Eldoraldo cạnh đó. Khám phá chồng lên khám phá, nhiều người chỉ mất 1 ngày đảo đãi đã tìm được cả ký vàng. Đỉnh điểm là tháng 7-1898, hai con tàu chất hơn 2 tấn vàng từ Klondike lần lượt cập bến Seattle, bang Washington và cảng San Francisco, bang California đã khiến bờ Tây nước Mỹ trở nên điên cuồng, nhất là khi tờ Seattle Post Intelligencer chạy hàng tít đậm nét: “Vàng, vàng, vàng! Bới đất lên, lội xuống suối là thấy vàng”, dẫn đến hàng trăm nghìn người bỏ việc ở các nông trang, nhà máy, trại chăn nuôi, xưởng gỗ…, để đi tìm vàng. Ngay cả thị trưởng thành phố Seattle là William D. Wood cũng từ chức vì vàng hấp dẫn hơn danh vọng! Nhà văn Robret W. Service viết: “Rất khó để mua được vé tàu vì mọi con tàu đi Yukon đều kín chỗ. Nếu bạn mua vé hôm nay thì 3 tháng sau bạn mới có thể khởi hành. Bên cạnh đó, vàng còn làm bùng nổ việc kinh doanh. Nhiều người một sớm một chiều trở thành nhà buôn. Họ bán lương thực, quần áo, súng đạn, dụng cụ đào đãi, lều bạt, xe trượt tuyết, ngựa và chó kéo xe, thậm chí cả sổ tay chỉ đường nếu bạn không đủ tiền thuê người bản xứ hướng dẫn…”.

Đến tháng 3-1898, đã có hơn 600.000 người được chính quyền cấp phép cho vào Yukon nhưng họ bị bắt buộc phải tự túc lương thực đủ dùng trong 1 năm vì cảnh sát lo ngại tình trạng thiếu ăn sẽ dẫn đến cướp bóc hoặc tàn sát loài bò rừng, hươu, nai…, để lấy thịt. Tuy nhiên trong số 600.000 người được cấp phép, chỉ khoảng 60.000 đến được Klondike. Số còn lại hoặc chết, hoặc quay về vì không chịu nổi cuộc hành trình gian khổ. Ngay cả những người ở lại cũng phải sống trong những điều kiện tồi tệ: Nhà cửa tạm bợ, điều kiện vệ sinh thấp kém nên chỉ một trận dịch tả cũng có thể lấy đi vài trăm sinh mạng. Vẫn trong cuốn “Đổ xô tìm vàng ở Klondike”, Robret W. Service viết: “Có người nhiễm bệnh nhưng không ai chăm sóc, không tìm được bác sĩ, không mua được thuốc dù trong túi có cả trăm nghìn USD vàng…”.

Giữa năm 1898, lại có thêm một thị trấn mới là Dawson mọc lên từ một dải đất đóng băng, nằm cạnh những bãi vàng. Với dân số 30.000 người, tất cả đều là dân đào vàng hoặc làm những dịch vụ có liên quan đến vàng. Về đêm, ánh sáng từ những ngọn đèn dầu, những đống lửa và những cây nến đã khiến Dawson nhìn rất lung linh huyền ảo. Mọi giao dịch, mua bán đều thanh toán bằng vàng. Trong những quán rượu, những triệu phú tiêu xài hoang phí vào những cuộc vui suốt sáng với rượu wishky và gái mại dâm vì họ tìm thấy vàng. Tại những sòng bạc, có những “triệu phú vàng” như Jimmy McMahon thua mất 28.000 USD chỉ trong vài tiếng (tương đương 804.000 USD hiện nay). Một số người khác thay vì đào vàng, họ nhìn ra cơ hội kinh doanh hiếm có, chẳng hạn như Belinda Mulrooney ở bang Pennsylvania, Mỹ. Khi đến Yukon mùa xuân năm 1897, Belinda bán cái bình đựng nước nóng của cô với giá 200 USD trong lúc tại Pennsylvania, cô mua nó chỉ 2 USD. Nhận thấy đây là vận may có một không hai, Belinda thuê 6 thổ dân khiêng cáng, chèo thuyền đưa cô đến cảng Skagway rồi trả 300 USD để được lên tàu đi ngay về Mỹ trong lúc bình thường, giá vé chỉ là 27 USD. 6 tháng sau, Belinda bao hẳn một tàu chứa đầy đồ gia dụng rồi trở lại Yukon. Lợi nhuận thu được, Belinda biến nó thành một nhà hàng, một khách sạn và một đại lý thu mua vàng. Cô thành công đến nỗi người ta nói: “Belinda là phụ nữ giàu nhất Klondike".

Tuy nhiên, Belinda Mulrooney chỉ là trường hợp cá biệt bởi lẽ đến năm 1898, những “cánh đồng vàng” đều đã có chủ. Những người đến sau hoặc phải đi làm thuê, hoặc trở lại Mỹ với hai bàn tay trắng. John Griffith Chaney, một trong những người đào vàng mà sau này trở thành nhà văn nổi tiếng Jack London với những cuốn tiểu thuyết, truyện ngắn lừng danh: “Tiếng gọi nơi hoang dã”, “Sói biển”, “Nanh trắng”, “Ánh sáng ban ngày”, “Nhóm lửa”, “Tình yêu cuộc sống”…, lấy bối cảnh từ Klondike, chỉ trụ được ở “cánh đồng vàng” 1 năm rồi phải quay về Mỹ trong tình trạng tàn tạ vì bệnh “chân đen Canada” mà nguyên nhân do thiếu vitamin C, túi không có một hạt vàng nào. Trong một cuốn tự truyện, Jack London viết: “Rất nhiều người ở Dawson cảm thấy vô cùng thất vọng. Họ đã vượt hàng nghìn dặm trong một chuyến đi đầy nguy hiểm chỉ để khám phá ra rằng ở đây không có gì dành cho họ. Người ta xâu xé nhau, cướp bóc, giết hại lẫn nhau cũng vì vàng. Nếu bạn đào được một số vàng lớn, bạn không dám bán ngay vì rất có thể bạn sẽ chết. Bạn phải chọn cách mang nó đến ngân hàng để ký gửi nhưng con đường từ bãi đào đến ngân hàng chưa chắc đã an toàn…”.

John Strike, từ người đào vàng trở thành kẻ săn thú lậu, chuyên bắn loài bò rừng hoang dã, xẻ thịt ướp muối bán cho các thợ đào khác, trong lúc say rượu đã vô tình tiết lộ rằng sau 2 năm, anh ta đã dành dụm được một số vàng từ việc bán thịt trị giá khoảng 1.600.000 USD! Tuy nhiên cuối năm 1898, gần hết mùa đông mà chẳng ai thấy mặt anh ta dù thời điểm ấy, thợ đào vàng rất cần thêm lương thực và sẵn sàng trả giá cao. Có tin đồn rằng đi đâu Strike cũng kè kè cái túi đựng vàng trên lưng ngựa nên anh ta bị giết. Một tin đồn khác cho biết Strike bị thổ dân sát hại vì anh ta bắn quá nhiều bò trên lãnh thổ của họ. Lại có người khẳng định Strike đã quay về California, Mỹ, mua một nông trại rồi sống an nhàn nhưng tất cả những chuyện này chẳng ai kiểm chứng được!

vang3.jpg -0
Hàng trăm người chờ đợi để có một chỗ trên tàu đến Klondike.

Tàn lụi

Theo thời gian và cường độ khai thác, nguồn tài nguyên khoáng sản nào rồi cũng cạn kiệt nên cũng như tất cả những cơn lốc vàng đã xảy ra trước đó, “cánh đồng vàng” Klondike tàn lụi nhanh chóng như khi nó bắt đầu. Đến mùa hè 1899, có thông tin cho biết một số thợ mỏ đã tìm thấy rất nhiều vàng dọc theo bờ biển Nome, Alaska nên ngay lập tức, một cuộc di cư ồ ạt từ Yukon đến Alaska diễn ra chỉ trong 1 tuần. Thị trấn Dawson, nơi từng có dân số hơn 30.000 người chỉ còn lại không đến 800! Nhà sử học Pierre Berton sau này viết về thời kỳ bùng nổ vàng, kéo dài 3 năm ở Yukon: “Cứ 1.000.000 người lên đường đến Yukon thì chỉ có khoảng 50.000 hoặc 60.000 tới đích, và cũng chỉ có khoảng 4.000 hoặc 5.000 người làm giàu nhờ vàng. 1/3 còn lại đủ sống hoặc tích lũy được chút ít. 2/3 trở về trắng tay với thân thể thương tích hoặc bệnh tật”.

Cuối năm 1899, đường dây điện báo kéo từ Skagway, Alaska đến thị trấn  Dawson, cho phép thợ đào vàng liên lạc về Mỹ ngay tức thì. Trước đó, năm 1898, đường sắt White Pass và Yukon Route bắt đầu xây dựng rồi khi hoàn thành năm 1900, lối mòn Chilkoot không ai sử dụng nữa. Chưa hết, việc tìm thấy vàng ở Alaska đã khiến Dawson rơi vào cảnh lụi tàn. Những thợ đào vàng còn ở lại chỉ nhận được mức lương 100 USD/tháng thay vì 1.800 USD như trước kia vì các chủ mỏ lập luận đường xá thông thương, giá thực phẩm và các đồ dùng trong sinh hoạt đã giảm xuống 1/10 trong lúc vàng ngày càng khó kiếm.

Theo nhà sử học Pierre Berton, trong 3 năm xảy ra cơn lốc vàng, đã có một lượng vàng trị giá hơn 2 tỉ USD được tìm thấy ở Yukon. Nó tương đương với 48 tỉ USD hiện nay. Đến năm 1920, việc đào bới tự phát được thay bằng những công ty, trang bị máy móc thay cho sức người, kéo dài đến năm 1966. Pierre Berton viết: “Sau này có nhiều mỏ vàng được tìm thấy ở Kenya, Angola, châu Phi, Peru, Nam Mỹ, eo biển Bering …, nhưng đều được khai thác bởi những tập đoàn lớn chứ không phải là tự phát, mạnh ai nấy đào nên những nhà sử học đều thống nhất rằng sự kiện Klondike và Yukon với hơn 3 triệu lượt người là cuộc thiên di vì vàng lớn nhất thế giới…”.

Vũ Cao (Theo History - The Last gold fever in the World)
.
.