Phim lịch sử: Tranh cãi đến khi nào?

Thứ Ba, 19/08/2025, 08:24

Việt Nam có một kho tàng văn hóa đa dạng, phong phú và còn rất nhiều dư địa để tiếp tục khai thác trong nhiều lĩnh vực nghệ thuật, trong đó có điện ảnh. Thế nhưng, cho đến nay, điện ảnh cũng chưa có những tác phẩm xứng tầm. GS, TSKH, NGND Vũ Minh Giang chia sẻ về khoảng trống phim lịch sử trong tọa đàm "Huyền thoại Dạ Trạch - Từ sử thi dân tộc đến ngôn ngữ điện ảnh”.

Khoảng trống phim lịch sử

Hiện nay, có 2 bộ phim lịch sử “Hộ Linh tráng sĩ - Bí ẩn mộ vua Đinh” và “Huyền tình Dạ Trạch” đang được thực hiện. “Hộ Linh Tráng Sĩ - Bí ẩn mộ vua Đinh” mở ra một câu chuyện đầy kịch tính và xúc động về thời vua Đinh. Sau khi vua Đinh Tiên Hoàng băng hà, 7 tráng sĩ được giao phó một sứ mệnh tối mật: chạy đua với thời gian, đối đầu với các thế lực thù địch, đưa 100 quan tài của vua đi theo 7 hướng khác nhau, đánh lừa kẻ thù đang rắp tâm phá hoại lăng mộ - nơi được tin là cội nguồn vượng khí của dân tộc.

Phim lịch sử: Tranh cãi đến khi nào? -0
Các nghệ sĩ đảm nhận dự án phim “Hộ linh tráng sĩ - Bí ẩn mộ vua Đinh”.

Nhưng điều gì ẩn giấu trong những chiếc quan tài ấy? Liệu đó chỉ là thi hài của vị Hoàng đế đầu tiên, hay còn một bí mật lớn lao hơn mà 7 tráng sĩ đã thề chết để bảo vệ? Hành trình của họ không chỉ là cuộc chiến với kẻ thù ở ngoài, mà còn là cuộc chiến nội tâm, nơi lòng trung thành, tình yêu và sự hy sinh đan xen, tạo nên một khúc ca bi hùng. Phim do Nguyễn Phan Quang Bình làm đạo diễn, đạo diễn võ thuật Johnny Trí Nguyễn, đạo diễn hình ảnh Nguyễn K’Linh.

Còn “Huyền tình Dạ Trạch” lấy cảm hứng từ truyền thuyết Chử Đồng Tử, một trong bốn vị Thánh “Tứ bất tử” của văn hóa tín ngưỡng và tâm thức người Việt (cùng với Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương và Mẫu Liễu Hạnh). Phim dựng lại một trong những thiên tình sử đẹp lưu truyền dân gian qua các thế hệ người Việt. Bên cạnh câu chuyện tình yêu, bộ phim còn khắc họa hành trình mở đất, lập làng của người dân Bắc Bộ, tái hiện thương cảng Dạ Trạch sầm uất, biểu tượng cho sự giao thương đầu tiên của người Việt cổ. Tất cả được kể bằng bằng tư duy hiện đại và hấp dẫn.

Có thể nói, đây là hai bộ phim kể câu chuyện về những thời kỳ xa xưa của lịch sử đất nước, vì thế các nhà làm phim rất kỹ lưỡng trong vấn đề nghiên cứu lịch sử, văn hóa, bối cảnh của thời đại đó. Mới đây nhất tại Bảo tàng Hà Nội, Đài Phát thanh - Truyền hình (PT-TH) Hà Nội tổ chức tọa đàm "Huyền thoại Dạ Trạch - Từ sử thi dân tộc đến ngôn ngữ điện ảnh”. Đây là hoạt động học thuật quan trọng, đặt nền móng tri thức và cảm hứng sáng tạo cho dự án phim đặc biệt “Huyền tình Dạ Trạch”.

Tại tọa đàm, các đại biểu cùng thảo luận xoay quanh các chủ đề không gian vật chất thời Hùng Vương qua khảo cổ học; đặc điểm lịch sử và huyền sử thời Văn Lang; vai trò tính nữ trong truyền thống Việt và hình tượng Tiên Dung; tổ chức làng cổ làm tư liệu dựng bối cảnh phim; biểu tượng Lạc Việt trong nghệ thuật tạo hình phục vụ thiết kế mỹ thuật điện ảnh..

“Qua lăng kính khảo cổ, lịch sử và nghệ thuật, từ bối cảnh truyền thuyết trở thành chất liệu nghệ thuật, đây là những gợi mở cho hành trình sáng tạo dựa trên học thuật, nơi những giá trị lịch sử, biểu tượng dân gian và không gian văn hóa được tiếp cận bằng tư duy điện ảnh, đặt nền móng cho một tác phẩm đậm chất Việt và giàu chiều sâu”, Tổng Giám đốc, Tổng biên tập Đài Phát thanh - Truyền hình Hà Nội Nguyễn Kim Khiêm nhận định.

Phim lịch sử: Tranh cãi đến khi nào? -2
“Huyền tình Dạ Trạch” lấy cảm hứng từ truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung, một biểu tượng bất tử trong văn hóa dân gian Việt Nam.

Tuy nhiên, nếu nhìn vào bức tranh điện ảnh Việt Nam hiện nay thì dòng phim lịch sử chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Thời gian qua, thị trường điện ảnh đang bị mất cân bằng khi phim kinh dị, phim về đề tài gia đình, phim hài chiếm sóng. Có một số bộ phim khai thác yếu tố văn hóa dân gian, nhưng chủ yếu là phim kinh dị. Cũng dễ hiểu vì đây là những dòng phim hấp dẫn khán giả đại chúng. Cú hích từ thành công của phim “Địa đạo” của đạo diễn tài năng Bùi Thạc Chuyên đã hé lộ ánh sáng trên con đường làm phim lịch sử vốn dĩ vẫn bị mặc định là “kén khán giả”, “không hấp dẫn”. Tuy nhiên, để thực sự có một dòng phim lịch sử vẫn là hành trình gian nan và nhiều thách thức.

Theo Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo, Đại học Quốc gia Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, GS.TSKH.NGND Vũ Minh Giang, việc lan tỏa giá trị lịch sử, văn hóa bằng nhiều hình thức nghệ thuật, trong đó có điện ảnh là điều trăn trở suốt nhiều năm nay không với riêng ông mà còn với nhiều chuyên gia, nhà văn hóa. “Việt Nam có kho tàng văn hóa đồ sộ, phong phú, đa dạng... Văn hóa không phải là cái chỉ để chiêm ngưỡng, tụng ca, mà phải là tài nguyên để chúng ta đưa vào cuộc sống, tạo thành sức mạnh trên ý nghĩa của nó. Việt Nam từng 3 lần đánh bại quân Nguyên Mông - một kỳ tích lớn trong lịch sử thế giới nhưng đến nay vẫn chưa có bộ phim nào đủ tầm để tái hiện chiến công đó. Ngay cả những phim được đánh giá tốt như “Đêm hội Long Trì” cũng chỉ có kinh phí thấp, thuyền rồng trên phim thực chất là phương tiện cải tạo từ xe lội nước quân đội”.

Theo ông, đó là một thực trạng đáng buồn bởi chúng ta chưa có những tác phẩm xứng tầm hay nói cách khác là thiếu vắng những tác phẩm lớn về văn hóa, lịch sử của đất nước có bề dày truyền thống và nhiều huyền tích lịch sử đã được ghi lại trong quốc sử và trở thành nền tảng cho các sáng tạo văn học - nghệ thuật.

Sáng tạo nhưng vẫn phải đảm bảo những giá trị cốt lõi của lịch sử

Tuy nhiên, thực tế có một vấn đề đặt ra khiến các nhà làm phim lịch sử lo ngại đó là làm thế nào để tiếp cận lịch sử một cách gần nhất, để tránh những sai sót. Bởi có lẽ cũng không ở đâu, cộng đồng mạng lại quan tâm, mổ xẻ nhiều như ở Việt Nam khi một bộ phim ra rạp có vấn đề hay có những sai sót về mặt lịch sử. TS Vũ Minh Giang cảnh báo: “Sự khắt khe thái quá từ dư luận và giới nghiên cứu có thể khiến các nhà làm phim chùn bước, không dám khai thác đề tài lịch sử nữa bởi lịch sử là chuyện đã qua, mà chuyện đã qua thì không phải ai cũng biết hết. Huyền sử cũng vậy - đó là tài nguyên cho sáng tạo, và đã là sáng tạo thì cần không gian. Vì thế, sáng tạo có thể hư cấu, nhưng phải có nguyên tắc: Không phỉ báng, không xuyên tạc, không được bất chấp sự thật và không biến tấu theo hướng lệch lạc”.

Phim lịch sử: Tranh cãi đến khi nào? -1
Tiến sĩ Vũ Minh Giang, Chủ tịch Hội đồng Khoa học và Đào tạo (Đại học Quốc gia Hà Nội), Phó Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tại buổi tọa đàm.

Để khắc phục điểm yếu này của dòng phim lịch sử, ông cho rằng, không thể đơn giản hóa việc làm phim lịch sử hay huyền sử bằng cách chỉ mời một vài “chuyên gia” rồi tin tuyệt đối vào quan điểm cá nhân của họ. Lịch sử là lĩnh vực phức tạp, không ai có thể tuyên bố mình nắm trọn sự thật, nên cần sự tham vấn từ nhiều góc nhìn học thuật và phải dựa trên nền tảng nghiên cứu bài bản. Nhiều sai sót trong các bộ phim từng bị đánh giá là “thảm họa” bắt nguồn từ cách làm cảm tính, thiếu cơ sở. “Có phim cho xe ngựa chạy trong bối cảnh thời Hùng Vương - giai đoạn chưa có bằng chứng nào về loại phương tiện này. Chỉ một chi tiết như vậy thôi cũng đủ khiến khán giả, đặc biệt là giới chuyên môn phản ứng dữ dội”. Vì thế, sự tham vấn các chuyên gia rất quan trọng, điều này sẽ giúp tránh được những sai sót hoặc thảm họa ở mức thấp nhất.

TS Nguyễn Việt - Giám đốc Trung tâm Tiền sử Đông Nam Á - nhấn mạnh rằng, lịch sử Việt Nam với bề dày hàng nghìn năm là một kho tàng quý giá, cần được khai thác cẩn trọng và sinh động thông qua ngôn ngữ điện ảnh. Theo ông, để tái hiện lịch sử thuyết phục, cần kết hợp nhiều nguồn tư liệu: Khảo cổ học, sử liệu chính thống và cả huyền thoại, cổ tích - mỗi nguồn có giá trị riêng, bổ trợ cho nhau trong việc dựng nên một bức tranh lịch sử toàn diện, gần gũi với khán giả. Tuy nhiên, ông cũng cho rằng, làm phim lịch sử luôn đi kèm tranh cãi, từ phục trang đến đạo cụ, không chỉ trong giới chuyên môn mà cả ở mạng xã hội, quán nước.

“Khi làm một bộ phim có yếu tố lịch sử, lại là lịch sử rất xa ngày nay, rất khó để không sai. Nhưng nếu có sự tư vấn từ các chuyên gia, cái sai đó sẽ được giảm thiểu ở mức thấp nhất”. Ông Việt cũng cho rằng, phim truyện không phải là phim tài liệu hay phim khoa học nên cần không gian sáng tạo. “Miễn là cái sai không lộ liễu, không phản cảm, và vẫn truyền được tinh thần lịch sử, tình yêu đất nước, tình người, thì sáng tạo là điều đáng khuyến khích”. TS Việt lấy ví dụ trong một bộ phim về Lê Lợi, hình ảnh nhân vật đeo đồng hồ hiện đại đã khiến khán giả bật cười vì sự thiếu chính xác. Những sai sót như vậy, dù nhỏ, có thể làm giảm giá trị của tác phẩm. Ông khuyến khích tinh thần sáng tạo và học hỏi của các bạn trẻ: “Hãy mạnh dạn sáng tạo, nhưng đừng ngại vấp váp. Vừa làm vừa học, và đừng ngần ngại tìm đến chuyên gia để được tư vấn”.

TS Phạm Đức Anh - Viện trưởng Viện Việt Nam học và Khoa học phát triển (Đại học Quốc gia Hà Nội) - cho rằng lịch sử gồm những điều đã xảy ra một cách khách quan trong quá khứ. Sử học, môn khoa học nhận thức về lịch sử, cũng chỉ có thể cố gắng tiệm cận nhất đến sự thực lịch sử, không thể tái hiện hoàn toàn. Cùng một câu chuyện - sự kiện lịch sử, những nhà sử học chuyên nghiệp và những người làm nghệ thuật có những cách tái hiện không giống nhau. Vì thế theo ông, nghệ thuật có quyền sáng tạo và tái tạo lịch sử theo cách riêng nhưng phải luôn đảm bảo yếu tố cốt lõi, tức nhận thức lịch sử phải tiệm cận nhất có thể với những gì đã xảy ra.

Hy vọng, những bộ phim lịch sử sẽ nhận được sự quan tâm của các nhà đầu tư và khán giả để dòng phim lịch sử Việt tiếp tục phát triển, có tiếng nói trong đời sống điện ảnh Việt đương đại. Bởi theo bà Ngô Bích Hạnh - Phó chủ tịch BHD chia sẻ: “Trong thập kỷ qua, những người trong nghề và khán giả quốc tế chủ yếu biết đến điện ảnh Việt Nam thông qua các bộ phim độc lập giành giải tại các liên hoan phim quốc tế uy tín như Cannes, Venice, Berlin và Busan.

Trong khi đó, các phim thương mại Việt Nam đạt doanh thu phòng vé cao trong nước (khoảng 20-25 triệu đô la Mỹ) thường là phim hài, hoặc gia đình là những thể loại không phải lúc nào cũng dễ dàng phát hành ở các thị trường quốc tế do khác biệt về văn hóa. Chúng tôi tin rằng ngành công nghiệp điện ảnh trong nước đã phát triển mạnh mẽ và trong thập kỷ này, điện ảnh Việt Nam sẽ có thể kể những câu chuyện lớn, mang tính sử thi, thu hút cả khán giả trong nước và quốc tế”.

Việt Linh
.
.