Người xưa lấy công bù tội như thế nào?
Có công được thưởng, có tội bị phạt, đó là đạo lý từ xưa đến nay. Thời nào cũng vậy, vừa có công, vừa có tội, vẫn có thể được xem xét bù trừ cho nhau để xử lý cho hợp tình hợp lý.
Việc công bù được tội tiêu biểu nhất trong lịch sử chính là sự việc của Phó tướng Vân Đồn Trần Khánh Dư trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên lần thứ 3 mà có lẽ người yêu lịch sử nước nhà đều nhớ.
“Đại Việt sử ký toàn thư” chép rằng, năm Trùng Hưng năm thứ 3 (1287), đời Vua Trần Nhân Tông, vào những ngày cuối tháng Chạp, quân Nguyên do Thoát Hoan cùng Ô Mã Nhi họp 30 vạn quân đánh vào Vân Đồn. Phó tướng Vân Đồn là Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư không đương nổi, bị thua. Thượng hoàng Trần Thánh Tông được tin, sai trung sứ xuống xiềng Khánh Dư giải về kinh. Tuy nhiên Khánh Dư nói với trung sứ:

"Lấy quân pháp mà xử, tôi cam chịu tội, nhưng xin khất hai, ba ngày, để mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn". Trung sứ theo lời xin đó.
Sau đó, Khánh Dư liệu biết quân giặc đã qua, thuyền vận tải tất theo sau, nên thu thập tàn binh đợi chúng. Chẳng bao lâu thuyền vận tải quả nhiên đến, Khánh Dư đánh bại chúng, bắt được quân lương khí giới của giặc nhiều không kể xiết, tù binh cũng rất nhiều. Ông lập tức sai chạy ngựa mang thư về báo, Thượng hoàng nhận tin vui mừng tha cho tội trước không hỏi đến và nói: "Chỗ trông cậy của quân Nguyên là lương thảo khí giới, nay đã bị ta bắt được, sợ nó chưa biết, có thể còn hung hăng chăng?". Thượng hoàng bèn thả những tên giặc bị bắt về doanh trại quân Nguyên để báo tin. Quân Nguyên quả nhiên rút lui. Cho nên, năm này, vết thương chiến tranh không thảm như năm trước, Khánh Dư có phần công lao trong đó, nên tội về việc đánh thua được hai vua Trần xóa hết.
Chuyện lấy công bù tội trong sử sách nước ta cũng nhiều, nhưng chủ yếu trong hoàn cảnh đánh giặc thì các quan mới có thể vừa có công, vừa có tội. Do đó, ngay cuối cuộc kháng chiến chống quân Minh, khi đang vây tàn quân giặc trong thành Đông Kinh, Bình Định vương Lê Lợi đã đặt ra 10 điều quân luật cho các tướng hiệu và quân nhân, trong đó điều thứ 9 nghiêm cấm việc "Theo thói ưa ghét của riêng mình mà đảo lộn công tội của người". Trong cả 10 điều quân luật, ai phạm phải điều nào đều bị chém cả.
Hay vào thời Lê trung hưng, vào năm Thịnh Đức thứ 3 (1655) đời Vua Lê Thần Tông, Vua Lê, Chúa Trịnh Tráng cho quân vào Nam đánh quân chúa Nguyễn ở sông Gianh. Chúa Nguyễn Phúc Tần sai các danh tướng là Thuận Nghĩa và Chiêu Vũ (tức Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật) đánh úp, phá được viên thuộc tướng tả trấn là Mậu quốc công Phạm Tất Toàn ở châu Bố Chính. Tất Toàn đem châu ấy đầu hàng quân Nguyễn. Quân chúa Nguyễn thừa thắng tiến đánh bọn Tả trấn Tiến quận công Lê Văn Hiểu, Hữu trấn Đông quận công Lê Hữu Đức ở miền Hà Tây, huyện Kỳ Hoa (sau là Kỳ Anh). Văn Hiểu đem quân bản bộ liều sức đánh, chân trúng đạn, thế không địch nổi, cùng với Hữu Đức rút chạy về tận Thạch Hà.

Tháng 6 năm ấy, chúa Trịnh Tráng xét tội thua trận, đã truy thu lại sắc ấn và binh dân của Lê Văn Hiểu, giáng Lê Hữu Đức làm đô đốc thiêm sự, bọn thuộc tướng Lê Thì Hiến, Trịnh Bính đều bị bãi chức tước và thu hồi dân lộc; bọn Lê Văn Hy, Vũ Bách Phúc bị truất làm binh lính; Lê Văn Dương bị sung quân. Giáng Đốc đồng Trần Ngọc Hậu làm Thượng bảo tự khanh, Vũ Lương làm Công khoa cấp sự trung Giám hộ Vũ Tự Khoát làm tham nghị xứ Nghệ An. Duy chỉ có người châu Bố Chính là Nguyễn Tất Thú không theo Phạm Tất Toàn hàng quân Nguyễn, được cho là “giữ bền tiết làm tôi”, nên cho thăng chức tước.
Cũng năm ấy, vào tháng 8, Chúa Trịnh Tráng lại sai Trịnh Trượng đem đại binh tiến đến huyện Kỳ Hoa, đóng ở Lạc Xuyên. Quân chúa Nguyễn bức sát, các quân Đàng Ngoài thua chạy, vứt bỏ hết các thứ quân nhu, khí giới, lần lượt bị quân chúa Nguyễn truy kích rồi rút chạy khỏi các cửa biển Kỳ La, Nam Giới. Tin về triều, chúa Trịnh Tráng phải cử con là Tây Định vương Trịnh Tạc đem quân vào ứng cứu.
Tháng 9, năm đó, chúa Trịnh Tráng xét tội thua trận ở Lạc Xuyên, đã gia hình phạt các tướng rất nặng: cho xử chém La Đức Đại, Nguyễn Hưng Nhượng; thắt cổ giết Tạ Thế Bảo, bãi chức tước của Trịnh Bá, Lê Hữu Lễ; giáng Trịnh Trụ làm đô đốc đồng tri. Đặc biệt, trong trận này, có viên xá lại là Đỗ Công Khôi và Trần Hữu Tài quan sát chiến trận nhưng lại thiên vị, lấy lỗi làm công, sự việc bị phát giác, chúa Trịnh đều sai xử chặt ngón tay cả. Khi xét công tội của quân thủy, Chúa cho Vũ Văn Thiêm làm tả đô đốc, phục lại chức tước cho Trương Đắc Thọ là Trình quận công, và biếm chức tước của Nguyễn Hữu Sắc.
Thời Nguyễn cũng vậy, các tướng cầm quân đi đánh trận, có thắng, có thua, nên tổng kết lại, công tội bù trừ cho nhau cũng nhiều. Như vào mùa thu năm Minh Mạng thứ 12 (1831), Phan Thanh Giản cầm quân đi đánh giặc Man (người Kh’me ở vùng biên giới với Campuchia ngày nay). Tuy nhiên, bộ sử nhà Nguyễn, “Đại Nam thực lục”, chép rằng trận đấy quân nhà Nguyễn thua, vì lẽ: “Lũ Phan Thanh Giản, kẻ thì khinh địch, hỏng việc, kẻ thì lui trận, cầu sống, đáng phải khép vào tội nặng”.
Sự việc được đưa lên Vua Minh Mạng xem xét, nhưng vua phân xử rằng: “Xét Phan Thanh Giản là văn quan, chưa quen việc quân, tướng tá đi theo nhiều người hèn kém, đến nỗi lầm lỡ việc quân cơ thì cũng khó trách cứ vào một mình Giản được. Lê Văn Hiếu làm việc đã lâu ngày tuổi già, sức yếu khó kham, sai khiến. Phạm Văn Tường đã là một tướng nhỏ lại không quân cứu việc đến lúc lầm đường bị bắt dù có muốn tự tử cũng không làm sao được. Xét tình, định tội, cũng đáng khoan cho”.
Do đó, án phạt đưa ra là Phan Thanh Giản bị cách chức, nhưng được cố sức làm việc dưới quyền bộ để chuộc tội. Lê Văn Hiếu cấp cho hàm Đội trưởng Chánh thất phẩm, bắt về hưu trí. Phạm Văn Tường giáng xuống Đội trưởng, phát đi đồn nguồn Chiên Đàn để cố sức làm việc chuộc tội. Hoàng Sĩ Quang có công xuất lực đốc vận quân lương không đến nỗi lỡ việc cũng có thể đền bù chút ít lỗi trước thì cho giáng bổ, dùng vào chức Viên ngoại lang trong sáu bộ. Lê Văn Thuỵ đương lúc thất trận, vì đường xa, không được biết còn có thể chối tội được, thì cho giáng 4 cấp nhưng được lưu dùng. Phạm Văn Điển theo việc quân từ lúc trẻ tuổi có công lao cũ, nên cho khôi phục làm Thành thủ úy; Nguyễn Kim Trợ bị giáng làm Đội trưởng. Tống Viết Bình gặp giặc chạy trước phải phạt trượng, cách chức, bắt làm lính.
Cũng năm đó, ở miền Bắc, Hộ phủ Thanh Hóa là Nguyễn Đăng Giai đánh bại thổ phỉ ở xã Phụng Công (thuộc huyện Vĩnh Lộc) phá luôn được các đồn giặc ở Kỳ Ngải, Nhân Lộ, bắt sống và chém được hơn 30 tên, thu được khí giới của bọn phỉ. Tin thắng trận ấy báo về kinh, nhưng Vua Minh Mạng dụ rằng: "Để thổ phỉ Thanh Hoa lén lút nổi dậy, đáng lý ra Nguyễn Đăng Giai thì khó chối được tội lỗi, nay biết ruổi ngựa quay về, phá được giặc, chỉ đủ đền bù được tội, chứ chưa nên bàn đến chuyện thưởng”.
Ở miền núi phía Bắc, tháng 5 năm Minh Mạng thứ 14 (1833), khi đánh quân nổi dậy của Đinh Công Tiến, viên Tổng thống quân vụ đạo Hưng Hóa là Phạm Văn Lý từng có lần ra quân chậm trễ, bị Vua Minh Mạng ban dụ nghiêm quở, đã dâng sớ xin chịu tội và xin hết sức hiệp cùng các quan tham tán, hẹn ngày đánh bắt giặc để đền bù lỗi trước. Nhà vua phê vào sớ rằng: "Hãy rộng cho ngươi 1 tuần nữa để cho ngươi làm được như lời đã nói. Nếu cuối cùng vẫn không thành công, thì khó rộng tha được".
Sau đó, Phạm Văn Lý hội quân với Tham tán đạo khác là Phạm Văn Điển, thự Tuần phủ là Ngô Huy Tuấn chia nhau đi lùng, bắt được hơn 20 tên đồ đảng giặc. Tuy nhiên, Vua Minh Mạng vẫn chưa cho đó là công, phê rằng: "Cứ theo tình hình đã báo, thì suốt lộ Đà Bắc, giặc đã đánh hơi, trốn xa từ trước rồi. Đáng tiếc là Phạm Văn Lý, ngươi không sớm đi đánh dẹp để báo tin thắng trận, rồi sau hãy đem quân về, thế chẳng hóa ra đã có công mà không có tội? May là ta nghĩ đến công lao trước của ngươi, nên hãy xử nhẹ; giá thử giao xuống cho đình thần hoặc quan coi việc pháp luật xét xử thì quân luật nghiêm ngặt, ngươi sẽ phải tội gì? Bấy giờ là muốn giữ lấy tấm thân để mưu việc hay về sau, phỏng có được chăng?”. Rồi vua ra lệnh: “Nội trong tháng này, cốt phải quét sạch hết thảy bọn giặc, thì không những chuộc được tội trước, mà lại còn được ta liệu cho ơn rộng nữa. Nếu cứ như trước, không làm nên công trạng gì, quyết khó rộng tha cho ngươi được nữa”.

Ở miền Nam, viên Án sát Biên Hòa là Lê Văn Lễ để quân giặc chiếm thành, sau đó quân triều đình lấy lại được thành. Vua Minh Mạng xét xử vụ này, đã dụ Nội các rằng: "Lê Văn Lễ trước đã không giữ vững được thành trì, ta đã đặc cách gia ơn cho cách lưu, sau nhân lấy lại được tỉnh thành, tưởng Lễ dự có công lao, cũng cho khai phục nguyên hàm. Nay xét rõ tình hình thì là thự Tuần phủ Vũ Quýnh mới là người đi đầu quân lính đánh lui được giặc, thì công và lỗi đủ đền bù cho nhau. Còn Lê Văn Lễ thì chỉ đóng quân ở trạm Biên - Long, không hề có chút công nào! Như thế há đáng lạm dự ơn điển? Sau đó lại không dò thám để báo tình hình quân sự. Khi đốc thúc quân và voi thì nhiều lần tâu báo đều tỏ ra không thông hiểu sự lý, thực là lười biếng khinh nhờn! Vậy tức thì cách chức, cho làm tiền khu để ra sức chuộc tội. Nếu vẫn cứ sợ hãi rụt rè thì chuẩn cho đem ra trước quân ngũ chém đầu ngay".
Vua Tự Đức còn nghiêm khắc xem xét cả công và tội của bản thân mình khi thắng giặc. Đó là sự kiện diễn ra năm Tự Đức thứ 19 (1866), sau khi các tướng vất vả dẹp yên bọn giặc cướp ở Hải Dương và Quảng Yên, đình thần xin vua vào làm lễ triều mừng. Tuy nhiên nhà vua không cho, chỉ đặc cách chuẩn cho đợi đến kỳ đem quân về sẽ gia ơn và dụ rằng: “Bọn giặc ấy cũng là con đỏ của triều đình, chơi nghịch đồ binh ở trong ao, đều là do quan lại sở tại không khéo võ yên ngăn giữ, mới gây nên biến cố ấy, đánh được họ cũng không giỏi gì, mà để cho nhân dân mắc phải giáo mác tên đạn, ngọc đá không phân, ta rất thương xót, không lấy làm mừng. Huống nay một phương ấy mới được dẹp yên, mà những tỉnh Lạng, Bằng, Tuyên, Thái và Hưng Hóa, chưa thể một loạt yên lặng cả; lại ngoảnh về phía nam, rất là đau lòng chỗ lấy lại không bù được chỗ mất, đó là điều mà ta cùng các quan chưa đền bù được lỗi trước, thẹn lòng sợ hãi không rồi, còn mừng làm gì?”.
Do Vua Tự Đức biết tự xét lỗi của mình, lại tưởng thưởng cho quân tướng chu đáo, nên các tướng đều hết lòng vì vua trong các cuộc đánh dẹp liên miên lúc bấy giờ.