Kỷ niệm 48 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 - 30/4/2023)

Người nhạc trưởng và cây vĩ cầm trong trại Davis

Chủ Nhật, 30/04/2023, 07:00

Ngày 27/1/1973, Hiệp định Paris được ký kết nhưng con đường dẫn đến hòa bình còn đầy chông gai. Trung ương Đảng và Quân ủy Trung ương chỉ đạo báo chí của ta trong trại Davis là hoạt động đấu tranh mũi nhọn quan trọng để tranh thủ sự ủng hộ của dư luận tiến bộ, yêu chuộng hòa bình trên thế giới và ngay trong hàng ngũ của kẻ thù.

Bộ Quốc phòng lựa chọn các nhà báo và cán bộ kỹ thuật có trình độ nghiệp vụ cao, có lập trường quan điểm đúng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đức hy sinh, dũng cảm… biệt phái thành các sĩ quan báo chí. Các nhà báo và kỹ thuật viên đã có mặt trong trại Davis, được biên chế thành Ban Thông tấn báo chí của cả hai đoàn (Đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam).

Quán triệt tinh thần chỉ đạo của Bác Hồ, hai đoàn “tuy hai nhưng là một”. Ban Thông tấn báo chí do đồng chí Võ Đông Giang – Đại tá, Phó trưởng Đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trực tiếp phụ trách, đồng thời là người phát ngôn của Đoàn. Ban Thông tấn báo chí gồm 32 người, biên chế thành ba bộ phận chính: phóng viên tin, phóng viên ảnh và nhân viên kỹ thuật.

Tr22 SĐB - Người nhạc trưởng và cây vĩ cầm trong trại Davis -0

Ban Thông tấn báo chí – giữa vòng vây địch

Sài Gòn lúc đó là điểm nóng, tập trung đông đảo đại diện của các cơ quan thông tấn, phát thanh truyền hình và các tờ báo lớn của 21 nước (đa số là tư bản), với hơn 500 phóng viên. Riêng nước Mỹ có 2 hãng thông tấn, 3 hãng truyền hình, 1 đài phát thanh và đại diện 15 tờ báo lớn (Los Angeles, Washington post, Time…). Cùng với 33 tờ báo của các nước khác và đông đảo phóng viên của chính quyền Sài Gòn. Các phóng viên của chế độ Sài Gòn thường có thái độ xấu, chống đối và phá rối trong các cuộc họp báo. Thậm chí có cả tình báo mật vụ trà trộn vào để làm công tác tình báo. Phóng viên của họ được tự do đi lại hành nghề, được tạo điều kiện hoạt động. Các phóng viên của ta bị hạn chế đi lại, bị ngăn cản trong hoạt động báo chí. Từ tháng 4 đến tháng 6 (năm 1974) họ còn không cho Đoàn ta tổ chức các cuộc họp báo.

Với tương quan lực lượng chênh lệch như vậy, lãnh đạo ta ở trại Davis không những chỉ đạo Ban Thông tấn báo chí hoạt động có hiệu quả mà còn tương kế tựu kế, tranh thủ lợi dụng đội ngũ báo chí hùng hậu của đối phương “giúp” ta trong công tác tuyên truyền đưa các thông tin về việc thực hiện Hiệp định Paris đến tận “buồng ngủ của các gia đình Mỹ”. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các hệ thống tuyên truyền của ta và tận dụng tranh thủ các cơ quan truyền thông quốc tế, đặc biệt là cơ quan truyền thông và phóng viên của các nước phương Tây, đã hình thành nên một thế trận thông tin tranh thủ được dư luận và nhân dân thế giới ủng hộ Việt Nam. Phong trào chống chiến tranh xâm lược Việt Nam đã phát triển ngay trong lòng nước Mỹ, thu hút hàng triệu người Mỹ thuộc đủ tầng lớp, thành phần tham gia với các biểu ngữ “Cút khỏi Việt Nam”, “Hãy mang những đứa trẻ của chúng tôi về ”…

Tr22 SĐB - Người nhạc trưởng và cây vĩ cầm trong trại Davis -2
Ban Thông tấn báo chí trong trại Davis (Đại tá Võ Đông Giang ngồi giữa).

Vượt qua những gian khổ khó khăn, các sĩ quan báo chí của Đoàn hăng hái xông pha trên các hoạt động mũi nhọn. Ngoài nhiệm vụ tham gia họp báo, họp dự thính các cuộc họp cấp trưởng đoàn, các sĩ quan báo chí còn xuất sắc tham gia các hoạt động giám sát thi hành việc ngừng bắn, trao trả tù binh quân sự, nhân viên dân sự, giám sát Mỹ rút quân để sẵn sàng có các bài viết sắc sảo bẻ gẫy các luận điệu xấu của báo chí đối phương.

Trước các cuộc họp báo, Đại tá Võ Đông Giang tổ chức họp Ban Thông tấn báo chí trao đổi trước những tình hình nổi bật trong tuần và bàn các phương án trả lời các tình huống rất kỹ. Ông chưa bao giờ nói “cái này tôi chưa biết, xin khất lại”, cũng chưa bao giờ né tránh trả lời các câu hỏi hóc búa mà hóa giải một cách tài tình hoặc khéo léo đẩy quả bóng sang hướng khác. Ông cũng là người phản bác và bẻ gẫy các luận điệu xuyên tạc, vu cáo ta vi phạm Hiệp định Paris, như vụ: Quân giải phóng phản kích lấy lại Cửa Việt, vụ máy bay của Mỹ bị bắn rơi ở Ly Tôn, máy bay trinh thám của ngụy chụp được hình ảnh SAM II ở Khe Sanh.

Ông là người luôn chú ý quan sát và phát hiện các nhân tố tích cực trong các nhà báo là người nước ngoài có tư tưởng tiến bộ. Trong bức thư gửi bà Nguyễn Thị Bình (Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam), ông tâm sự về việc tranh thủ nhà báo Sharrock – Giám đốc phân xã Reuters ; nữ nhà báo Victoria – đại diện Báo London Times… hoặc như các nhà báo làm việc tại các tờ báo đối lập ở Sài Gòn (Điện tín, Đại dân tộc…) đứng về phía ta. Trong cuộc đấu tranh giành thế “thượng phong”, mặc dù chính quyền Sài Gòn đã tìm mọi cách, nhưng tiếc thay, “họ” chẳng bao giờ giành được. 

Tr22 SĐB - Người nhạc trưởng và cây vĩ cầm trong trại Davis -3
Đại tá Võ Đông Giang làm việc với các bạn Hungary và Ba Lan trong trại Davis.

Những ngày cuối cùng sắp kết thúc chiến tranh, không quân ta ném bom dinh Độc Lập, sân bay Tân Sơn Nhất, các nhà báo cố moi thông tin: Đó là máy bay của Bắc Việt hay máy bay phản chiến? Sau khi ném bom thì bay về sân bay nào? Bằng tài ứng biến, ông đã làm cho họ không moi được thông tin gì về việc này. Đặc biệt trong những trận ta đánh Phước Long, Buôn Mê Thuật… chính các nhà báo lại là nguồn thông tin đầu tiên cung cấp cho Đoàn ta, xong họ cũng nhân cơ hội này để tìm hiểu xem ta có đánh vào Sài Gòn hay không.

Đặc biệt trong ba cuộc họp báo cuối cùng, Đại tá Võ Đông Giang chủ trì, phòng họp đông chật cứng, các nhà báo phải ngồi tràn cả ra bên ngoài. Họ là phóng viên, là tình báo viên cố tìm hiểu xem ta sẽ đánh đến đâu? Có tấn công vào Sài Gòn không? Có thương lượng hay không? Cán bộ và phóng viên trại Davis nhớ mãi cuộc họp báo ngắn gọn vào sáng 26/4/1975.

Trước tất cả các câu hỏi vừa mang tính nghiệp vụ báo chí vừa mang mầu sắc tình báo, Đại tá Võ Đông Giang tươi cười hóm hỉnh trả lời: “Rất tiếc là Bộ chỉ huy của chúng tôi không có thói quen nói trước ý đồ của mình”. Các nhà báo còn ngơ ngác trước câu trả lời thì ông đã dõng dạc đọc tuyên bố của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam về các điều kiện để mở đàm phán, gồm 9 điều kiện với Mỹ và 7 điều kiện với chính quyền Sài Gòn. Thực chất là “tối hậu thư”, buộc Mỹ phải chấm dứt can thiệp vào nội bộ miền Nam và chính quyền Sài Gòn phải đầu hàng vô điều kiện. Ngay lập tức, báo chí thế giới tràn ngập tuyên bố của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam.

Bên cạnh việc tổ chức các cuộc họp báo công khai, ta còn đấu tranh đòi quyền liên lạc trực tiếp bằng điện thoại với các nhà báo. Lãnh đạo đoàn cũng ra các quy định về công tác tiếp xúc, phát ngôn, tác phong ứng xử để các sĩ quan báo chí giữ được mình và cảm hóa được đối tượng. Chính quyền Sài Gòn đã tổ chức ghi âm các cuộc trao đổi đó.

Người nhạc trưởng và cây vĩ cầm

Sử dụng quyền ưu đãi miễn trừ, đoàn ta đòi được quyền tổ chức hàng tuần một cuộc họp báo vào thứ bẩy. Chủ trì họp báo thường là các trưởng đoàn, nhưng chủ yếu là Đại tá Võ Đông Giang. Lần nào ông cũng mặc quân phục chỉnh tề, khuôn mặt trang nghiêm nhưng tươi tỉnh, giọng nói dứt khoát, mạch lạc. Ông là người trả lời tất cả các câu hỏi hóc búa nhất, với sự tự tin và tâm thái thoải mái, với ngữ điệu tuyệt vời khiến các nhà báo đều có cảm tình. Ông đã từng làm dịu đi không khí của những buổi họp báo, tưởng chừng sẽ xảy ra xung đột lớn. Trong cuốn “Et Sài Gòn Tomba” của Paul Dreyfrus – nhà báo quốc tịch Pháp có mặt ở Sài Gòn từ những năm 70 đến ngày 30/4/1975… đã có những đánh giá cao ông Võ Đông Giang.

Tr22 SĐB - Người nhạc trưởng và cây vĩ cầm trong trại Davis -1
Đại tá Võ Đông Giang chủ trì một cuộc họp báo ở trại Davis - Sài Gòn.

Ngày 5/11/1973, quân giải phóng tập kích vào sân bay Biên Hòa và ngày 3/12/1973, kho xăng Nhà Bè bị đặc công ta đốt cháy. Trước thiệt hại nặng nề, Mỹ - ngụy vô cùng cay cú, họ định làm to vấn đề này trước dư luận thế giới về việc Việt Nam phá hoại Hiệp định Paris. Cuối năm 1973, Đoàn ta tổ chức họp báo vì lúc đó mới tới thời điểm thuận lợi – Bộ chỉ huy lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam đã phát lệnh đánh trả các hành động quân sự của quân Sài Gòn lấn chiếm trên các chiến trường. Trước khi họp báo, Đoàn ta dựng tấm biển “Đoàn đại biểu quân sự Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam trong Ban liên hiệp quân sự hai bên Trung ương”. Có hơn 100 nhà báo, đa số là phóng viên nước ngoài, khoảng 20 phóng viên của chính quyền Sài Gòn đến dự.

Đại tá Võ Đông Giang chủ trì buổi họp báo. Ông có dáng dấp như một nhà giáo, dong dỏng cao, vầng trán rộng, da trắng, đôi mắt sáng. Ông đứng nhìn khắp lượt hội trường, ước lượng số người đến dự. Ông mỉm cười chào thân mật mọi người và ngồi xuống chiếc ghế dành cho chủ tọa, lần lượt trả lời các câu hỏi trực tiếp hoặc viết qua giấy… giải đáp tường tận, dõng dạc về lập trường, quan điểm trước sau như một của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Ông khẳng định: Chính phủ Mỹ đã phá Hiệp định Genever 1954, không đạt được mục đích, họ tiếp tục không thi hành Hiệp định Paris mà còn dung túng cho chính quyền Sài Gòn ra sức phá hoại hiệp định.

Thuyết trình xong, Đại tá Võ Đông Giang đọc mệnh lệnh của Bộ chỉ huy các lực lượng vũ trang giải phóng miền Nam về quyền đánh trả sự vi phạm ngừng bắn không chỉ tại địa điểm quân đội Sài Gòn gây ra mà còn có quyền trừng trị kẻ phá hoại hiệp định ngay tại nơi xuất phát. Ông Võ Đông Giang không còn dáng dấp của một “ nhà giáo” nữa, người ta chỉ nhận ra sự hùng hồn của một vị Tướng (phía địch thường gọi ông Giang là Tướng Giang), khẩu khí của một chính khách từng trải. Mỹ - ngụy hy vọng hôm sau báo chí thế giới và báo chí Sài Gòn sẽ sôi động việc “Việt cộng” vi phạm Hiệp định Paris. Nhưng điều đó không xảy ra.

Những phóng viên là sĩ quan tâm lý chiến của báo “Tiền tuyến”, “Công luận”… Những bồi bút như Phan Nhật Nam, Phạm Huấn cũng “tắt điện”. Nhiều nhà báo phỏng vấn trực tiếp trong đó có một nữ phóng viên nước ngoài. Cô phóng viên này chưa đến tuổi 30 người thon thả, tóc nâu xõa ngang vai, đôi mắt mầu xanh biếc, cô đặt ra câu hỏi: Nếu quân đội Việt Nam Cộng hòa liên tiếp mở các đợt tấn công vào vùng giải phóng, các ngài có trả đũa và mở các cuộc tấn công mới hay không?

Tr22 SĐB - Người nhạc trưởng và cây vĩ cầm trong trại Davis -4
Trại Davis năm 1973.

Ông Võ Đông Giang khẳng định: Bảo vệ và thi hành nghiêm chỉnh hiệp định chính là bảo vệ quyền lợi chính đáng của nhân dân miền Nam Việt Nam, trong đó có cả quyền lợi của các sĩ quan binh lính và thân nhân của họ, bên phía quân đội Sài Gòn… Ông lên án: Chính quyền Sài Gòn đã vi phạm Hiệp định Paris hàng trăm ngàn lần, đã trút bom đạn xuống làng mạc, càn quét giết hại đồng bào trong vùng giải phóng. Ông hùng hồn tuyên bố: “Chúng tôi phải có quyền tự vệ chính đáng, phải đánh trả và trừng trị ngay từ nơi xuất phát của họ. Pháo kích sân bay Biên Hòa và đốt cháy kho xăng Nhà Bè vừa qua là sự trừng phạt chính đáng”.

Riêng việc trả lời câu hỏi của cô phóng viên trẻ, Đại tá Võ Đông Giang đứng lên như một sự đáp lễ. Ông nhận ra sự đồng cảm của nhà báo này qua những lần họp báo trước. Trả lời cô xong, ông chậm rãi ngồi xuống và nhìn bao quát các nhà báo. Cả hội trường rộ lên tiếng xì xào, trao đổi. Họ không biểu lộ công khai nhưng nhìn ánh mắt của họ cũng đã nói lên sự hâm mộ, sự đồng cảm và sự ủng hộ kín đáo. Các nhà báo hỏi thêm một số câu hỏi nữa, Đại tá vui vẻ giải thích thêm, cách trả lời vừa hợp tình hợp lý xen lẫn sự hóm hỉnh.

Khi kết thúc họp báo, Đại tá rời ghế chủ tọa đi xuống từng bàn giao lưu với các nhà báo, ông thân mật bắt tay từng người. Những nụ cười, những ánh mắt ngưỡng mộ và kính trọng đối với vị đại diện quân giải phóng. Họ càng vui và kính trọng hơn khi nhận được từ ông các thông tin cần thiết đầy đủ; sự ứng xử điềm tĩnh của ông trong buổi họp báo. Ông không quên đến bắt tay cô nhà báo nước ngoài đã đưa ra câu hỏi ấn tượng để ông đi đến tận cùng của sự việc một cách logic và tài tình: Quyền tự vệ chính đáng và hợp pháp của quân giải phóng trước sự lấn chiếm vi phạm Hiệp định Paris của Mỹ - ngụy. Lúc này trông ông như trẻ ra, hình ảnh của ông khiến người ta liên tưởng tới ông Phan Bá (tên của ông) trong thời kỳ chống Pháp, người đã từng làm chủ bút tờ báo đầu tiên của Đảng bộ tỉnh Gia Lai – Báo Sáng và tờ Thông tin Gia lai.

Đại tá Võ Đông Giang không chỉ là một trong những vị chỉ huy tham gia điều hành công việc hàng ngày ở trại Davis mà còn là nhạc trưởng trong dàn nhạc giao hưởng - Ban Thông tấn báo chí; đồng thời là cây vĩ cầm xuất sắc trong dàn nhạc này. Với vai trò là nhạc trưởng, ông đã tạo nên sự phối hợp nhịp nhàng của từng nhạc công, chỉ dẫn sắc thái mà các nhạc cụ cần biểu đạt trong mối tương quan giữa các nhạc cụ. Trong các buổi họp báo, ông vừa là nhạc trưởng vừa là nhạc công điều khiển cây đàn vĩ cầm. Ông đã chuyển tải được toàn bộ tâm hồn mình và tâm hồn bản nhạc vào từng nốt nhạc tạo nên những âm điệu tinh tế đến mức hoàn hảo.

Đỗ Văn Phú
.
.