Người nhập cư và tội phạm: Những số liệu bị bỏ quên

Thứ Sáu, 30/05/2025, 09:20

Cuộc chiến chống người nhập cư đã trở thành một trong những trọng tâm chính trị của các đảng cánh hữu và cả các đảng trung dung trên thế giới. Trong diễn ngôn của nhiều chính khách, việc gia tăng người nhập cư thường được gắn với sự gia tăng tội phạm. Trong khi đó, các số liệu thống kê cho thấy không có mối liên hệ như vậy, hoặc nếu có thì ngược lại: ở những quốc gia có tỷ lệ người nhập cư cao, mức độ phạm pháp giảm xuống.

Nhập cư gia tăng - tội phạm giảm xuống

Tổng thống Trump không đơn độc - các đảng dân túy cánh hữu trên khắp thế giới đều biến người nhập cư thành mục tiêu chính cho những chỉ trích của mình, đồng thời coi đây là công cụ chủ yếu để huy động cử tri ủng hộ. Sau làn sóng tung tin sai lệch là làn sóng bạo lực, như các vụ bạo động đã xảy ra tại Anh mùa hè năm ngoái - điều này giống như những gì đã diễn ra cách đây một thế kỷ, chỉ khác ở chỗ đối tượng bị bài xích nay không còn là người Do Thái, mà là người nhập cư.

Trong trường hợp nước Mỹ, tư tưởng bài xích người nhập cư mang tính chất hết sức nghịch lý. Mỹ là quốc gia được hình thành bởi người nhập cư, và suốt chiều dài lịch sử, người nhập cư luôn là nguồn lực chính cho sự phát triển của kinh tế và văn hóa nước này. Phát ngôn của Tổng thống Trump về việc “người nhập cư mang theo tội phạm vì có gen xấu” là hoàn toàn thiếu cơ sở. Số liệu thống kê cho thấy tỷ lệ người nhập cư trong dân số Mỹ đã tăng từ 6% vào năm 1990 lên 13% vào năm 2012, trong khi số vụ tội phạm bạo lực lại giảm từ 700 xuống còn 400 trên 100.000 người.

1-b-o lo-n ch-ng ngu-i nh-p cu - southport , anh.jpg -0
Bạo loạn chống người nhập cư ở thành phố Southport, Anh.

Những số liệu thống kê tương tự cũng được ghi nhận trên quy mô toàn cầu: mặc dù số lượng người nhập cư trên thế giới đã tăng mạnh trong những thập kỷ gần đây (từ 150 triệu người lên hơn 300 triệu kể từ năm 1990), tỷ lệ tội phạm tại các nước phát triển vẫn giảm đều đặn. Tại Vương quốc Anh, trong bối cảnh gia tăng người nhập cư tương tự, số vụ tội phạm liên quan đến tài sản (như trộm cắp hay cướp giật) đã giảm từ 5.100 xuống còn 2.800 vụ mỗi năm.

Các nghiên cứu về mối liên hệ giữa người nhập cư và tội phạm được tiến hành trong hơn một thế kỷ qua và liên tục chỉ ra rằng mối liên hệ này hoặc không tồn tại, hoặc mang tính tiêu cực - nghĩa là mức độ tội phạm giảm, nếu trong xã hội có nhiều người nước ngoài. Việc so sánh số liệu thống kê về số vụ giết người và tình hình nhập cư tại 55 quốc gia từ năm 1990 đến 2019 cũng cho thấy: dù người nhập cư gia tăng, số vụ tội phạm tính trên đầu người vẫn giảm một cách đều đặn.

Người nhập cư ít phạm tội hơn

Các nghiên cứu cho thấy người nhập cư thế hệ thứ nhất thường ít phạm tội hơn so với người bản địa. Ví dụ, ở Nga, cứ 1.000 cư dân địa phương thì có 6 tên tội phạm, trong khi đó tỷ lệ này ở người nước ngoài chỉ có 2 hoặc 3.

Do tình hình chính trị bất ổn, năm 2014, có 2 triệu người Venezuela di cư sang Chile, Colombia và Peru. Số liệu thống kê cho thấy họ cũng phạm tội ít hơn nhiều so với dân bản địa. Như vậy, ở các nước có nhiều lao động nhập cư, tỷ lệ tội phạm thường giảm: một mặt, người nước ngoài ít có khuynh hướng phạm tội hơn, điều này giúp giảm số vụ tội phạm trên tổng số dân, mặt khác, sự di chuyển của những người lao động mới thúc đẩy sự phát triển kinh tế và tạo ra các việc làm hợp pháp mới.

2- ngu-i nc x-p hàng  - ceuta, tây ban nha.jpg -0
Người nhập cư xếp hàng ở thành phố Ceuta, Tây Ban Nha.

Những người tị nạn và người nhập cư không có giấy tờ có xu hướng phạm các tội trộm cắp vặt (làm giả giấy tờ và các "tội phạm vì sinh kế") nhiều hơn so với người lao động nhập cư hợp pháp và dân bản địa. Sở dĩ như vậy là vì họ bị cấm làm việc ở quốc gia mới và không thể tự nuôi sống bản thân, ít nhất là cho đến khi hoàn tất quá trình hợp pháp hóa. Năm 2004, sau khi 8 quốc gia mới gia nhập EU, số tội phạm loại này ở Vương quốc Anh đã giảm, vì nhiều người nhập cư đã có thể hợp pháp hóa và tìm được việc làm.

Tương tự, sau khi Romania và Bulgaria gia nhập EU, ở Ý, tỷ lệ “tội phạm vì sinh kế" của những người đến từ các quốc gia này đã giảm một nửa, nhờ họ được tiếp cận thị trường lao động hợp pháp. Hơn nữa, ở miền nam nước Ý, nơi nền kinh tế nông nghiệp  tạo ra cho những người nhập cư không có giấy tờ nhiều việc làm phi chính thức hơn, nên tỷ lệ “tội phạm vì sinh kế” ở đó cũng thấp hơn.

Việc đơn giản hóa thủ tục hợp pháp hóa cho người nước ngoài không hề ảnh hưởng đến các tội phạm bạo lực - một lần nữa là vì những người nhập cư thế hệ thứ nhất nhìn chung ít vi phạm pháp luật hơn.

Tuy nhiên, tỷ lệ tội phạm đang gia tăng đáng kể trong nhóm người nhập cư thế hệ thứ hai (tức là những người sinh ra tại quốc gia mới). Về mặt này, số liệu của châu Âu và Hoa Kỳ bắt đầu có sự khác biệt.

untitled.jpg -0
An ninh Nga kiểm tra giấy tờ người nhập cư ở thành phố Krasnoyarsk.

Tại Hoa Kỳ, người nhập cư thế hệ thứ hai mới chỉ bắt đầu có tỷ lệ phạm tội tiệm cận với người bản địa. Đến thế hệ thứ ba, tỷ lệ phạm tội đã ngang bằng với người bản địa, đồng thời cũng phản ánh tỷ lệ tội phạm chung của cộng đồng người nhập cư đang sinh sống tại nước này.

Còn tại châu Âu, người nhập cư thế hệ thứ hai lại phạm tội nhiều hơn so với thế hệ thứ nhất, cũng như người bản địa. Theo một nghiên cứu  năm 2010, tại Hà Lan, có 2,2% thanh niên bản địa (từ 18 đến 24 tuổi) từng bị bắt giữ, trong khi tỷ lệ này ở con cái của người nhập cư lên đến 4,4%. Một bức tranh tương tự cũng được ghi nhận ở Đan Mạch: năm 2006, có 1,4% người Đan Mạch trong độ tuổi từ 15 đến 45 từng phạm tội ít nhất một lần, trong khi ở thế hệ thứ hai người nhập cư đến từ các quốc gia không thuộc phương Tây, con số này là 5,4%.

5-tù nhân  ngu-i nu-c ngoài trong tr-i c-i t-o -  nga.jpg -0
Tù nhân là người nhập cư nước ngoài trong trại cải tạo Nga.

Hiện tượng này được gọi là “đồng hóa đi xuống”, tức là sự suy thoái hoặc trì trệ về mặt kinh tế- xã hội của con cái những người nhập cư so với cha mẹ của họ. Có nhiều yếu tố dẫn đến  tình trạng này, từ sự chênh lệch giữa kỳ vọng về cuộc sống tại quốc gia mới và thực tế, cho đến vấn đề phân biệt đối xử và hoàn cảnh kinh tế.

Ví dụ, ở Đức, con cái của những người nhập cư từ các quốc gia Hồi giáo thường phải đối mặt với định kiến của giáo viên, điều này hạn chế cơ hội giáo dục và nghề nghiệp của họ. Hệ quả là, nhiều em tìm đến con đường tự khẳng định mình thông qua các tổ chức phi chính thức, chẳng hạn như các băng nhóm tội phạm đường phố. Các nghiên cứu cho thấy, việc có bạn bè đồng trang lứa tham gia các băng nhóm làm tăng nguy cơ dính líu đến hoạt động tội phạm đối với con cái những người nhập cư lẫn người bản địa.

Tình hình có thể trở nên trầm trọng hơn, nếu cha mẹ quá bận rộn với công việc và không dành đủ sự quan tâm đến con cái. Chính vì vậy, các mạng lưới hỗ trợ như nhà trẻ, tổ chức tôn giáo và cộng đồng dân cư địa phương đóng vai trò rất quan trọng trong việc giúp đỡ trẻ em nhập cư hòa nhập với xã hội và đảm nhận một phần công việc chăm sóc cho các em.

Trong khi đó, việc hội nhập của trẻ em nhập cư ở Hoa Kỳ, Canada và Úc lại diễn ra thuận lợi hơn. Những quốc gia này được xem là “các nước nhập cư” - tức là có truyền thống tiếp nhận nhiều người nước ngoài. Tại đây, tỷ lệ tội phạm trong cộng đồng người nhập cư thế hệ thứ nhất cũng thấp hơn so với châu Âu.

3- ngu-i nc thu ho-ch oliu - tây ban nha.jpg -0
Người nhập cư thu hoạch ô liu ở Tây Ban Nha.

Kinh nghiệm của châu Âu cho thấy rằng việc tạo ra các rào cản đối với quá trình hội nhập làm gia tăng đáng kể khả năng người nhập cư và con cái của họ bị cuốn vào con đường phạm pháp. Đức và Hà Lan là ví dụ điển hình - một thời gian dài, hai nước này không thừa nhận mình là “quốc gia nhập cư”. Vì vậy, khi làn sóng lao động nước ngoài tràn đến đây vào những năm 1960 (chủ yếu từ Thổ Nhĩ Kỳ, Maroc và các nước vùng Balkan), chính quyền không có kế hoạch hòa nhập họ vào xã hội, vì cho rằng cuối cùng họ sẽ về nước.

Tuy nhiên, những người lao động này đã ở lại, họ đưa gia đình sang định cư hoặc lập gia đình tại Đức, đồng thời phải đối mặt với các vấn đề hợp pháp hóa, tìm việc làm và cho con cái đi học. Trong khi đó, hệ thống trường học và cảnh sát Đức chưa sẵn sàng tiếp nhận và hỗ trợ họ. Phải đến những năm 2000, nhóm nhập cư này mới dần được hợp pháp hóa. Kết quả là, Đức và Hà Lan đã phải đối mặt với tỷ lệ tội phạm gia tăng trong nhóm dân cư có nguồn gốc từ các quốc gia nói trên, cũng như con cái của họ - những người hiện nay thường được gọi là “thế hệ bị đánh mất”.

Kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới cho thấy, phần lớn người di cư chuyển đến các quốc gia khác chủ yếu vì lý do kinh tế. Hơn 70% những người nhập cư trên thế giới là nhập cư lao động. Khi bị gạt ra ngoài lề xã hội và gặp khó khăn trong việc tiếp cận thị trường lao động chính thức, họ thường buộc phải dựa vào các công việc phi chính thức. Điều này làm gia tăng nguy cơ liên quan đến các hành vi phạm pháp trong nhóm người nhập cư.

Người nhập cư phụ thuộc vào các chủ sử dụng lao động, đồng thời họ làm giảm khả năng cạnh tranh của người dân địa phương khi chấp nhận những điều kiện lao động bất lợi. Hoặc vì không có sự lựa chọn nào khác, họ có thể bị lôi kéo vào các mạng lưới tội phạm. Cách thức hiệu quả nhất để đối phó với vấn đề này là tạo  cơ hội kiếm sống hợp pháp cho người nhập cư và hỗ trợ họ hòa nhập vào xã hội mới.

Anh Duy
.
.