Chương trình cấy rệp gián điệp của tình báo Mỹ
Cục thu thập đặc biệt Mỹ (SCS) có tên mã F6, là một chương trình chung của NSA - CIA và được biết đến dưới cái tên “Lực lượng điệp vụ bất khả thi” - với hàm ý rằng với những điệp vụ mà các lực lượng khác không thể thực hiện được, thì đơn vị này sẽ làm được. Chính phủ Mỹ thường xuyên phủ nhận sự tồn tại của SCS, nhưng các hoạt động và năng lực của nó đã bị lộ sáng theo thời gian.
Những tiết lộ của Edward Snowden cùng cá nhân khác có cùng sự am tường đã phơi bày về một đơn vị nhạy cảm cao. Theo đó nhiệm vụ của SCS là Tình báo tín hiệu (Sigint). Cụ thể hơn thì họ tập trung vào việc “cài, đặt những con rệp siêu công nghệ cao vào những nơi dường như không thể chạm tới được”.
Một tổ chức bí ẩn
SCS được thành lập vào năm 1978 như là một cái cách để hai cơ quan tình báo NSA và CIA hợp tác để thực hiện các hoạt động thu thập tình báo quan trọng và đặc biệt nhạy cảm cao. Sự ra đời SCS cho phép tiếp cận và điều phối các mục tiêu một cách hiệu quả hơn. Trước khi đơn vị này ra đời đã có một cuộc cạnh tranh không ngừng giữa các chuyên gia nghe lén của NSA và chuyên gia cấy rệp gián điệp của CIA.
Trước khi có mặt SCS, cả CIA và NSA đều phải nỗ lực gấp đôi và phối hợp không mấy hiệu quả. Việc hợp tác giữa 2 cơ quan tình báo này đã cho phép họ kết hợp các lĩnh vực chuyên môn thành một đơn vị năng lực cao. Trong Chiến tranh Lạnh, giá trị của SCS không hề nhỏ. Thời kỳ đó, SCS đã “trồng” các thiết bị nghe lén lên người những con chim bồ câu đậu trên nóc tòa đại sứ quán Liên Xô ở Washington D.C. Kể từ thập niên 1990, SCS ngày càng phát triển lan rộng.
Cuối thập niên 1990, SCS là một trong những đơn vị đầu tiên thiết lập hoạt động ở Trung Đông. Năm 1999, SCS nghe lén các trại huấn luyện của al-Qaeda. Chuyển sang thế kỷ mới, các hoạt động của SCS phổ biến khắp Iraq và tăng cường với sự xâm lược của Mỹ. SCS được tổ chức nhằm tối đa hóa sự hợp tác giữa các chuyên gia trong lĩnh vực và chuyên gia Sigint. Để duy trì sự hợp tác mạnh mẽ, người cầm trịch của SCS được thay đổi luân phiên giữa giám đốc CIA và NSA.
Nhằm đạt được sức mạnh tổng hợp giữa các cơ quan tình báo, có 4 đơn vị đã cấu hình nên SCS bao gồm Văn phòng hoạt động thực địa (FOO), Văn phòng kỹ thuật thực địa (FEO), Văn phòng hỗ trợ nhiệm vụ (MSO) và Văn phòng hậu cần và căn cứ (I&LO). FOO chịu trách nhiệm chủ yếu về việc thiết lập trang thiết bị và thu thập tình báo. Các sĩ quan trong đơn vị này vận hành các thiết bị của đại sứ quán ngoài việc thực hiện những công việc mật (hay đột nhập) vì mục đích cài rệp nghe lén”.
Cấu trúc tổ chức của SCS cho phép 4 đơn vị có được những năng lực thu thập và phân tích tình báo hoàn chỉnh. Nhân viên của FOO có thể cấp được quyền truy cập quan trọng và có khả năng từ chối tại thực địa bằng cách sử dụng danh tính giả làm các sĩ quan dịch vụ nước ngoài hoặc các chuyên gia viễn thông ngoại giao. Họ cũng có thể mở rộng hơn nữa phạm vi và lợi thế của mình các đối tác chiến lược.
SCS duy trì những mối quan hệ công tác với nhiều cơ quan khác nhau ngay trên đất Mỹ bao gồm DEA (Lực lượng chống ma túy), DIA (Cơ quan tình báo quốc phòng), FBI, Mật vụ, Thực thi pháp luật… cùng các cơ chế khác. Thông tin thu thập từ khắp thế giới có thể được truyền an toàn tới “sào huyệt” của họ nằm ở ngoại ô Beltsville (tiểu bang Maryland).
Tổng hành dinh mật
Trụ sở của SCS cũng không kém phần kỳ thú. Tổ chức này hoạt động trong một cơ sở nằm gần cơ sở truyền thông của Bộ Ngoại giao Mỹ, một nơi có tên gọi là “Beltsville Annex”. Cơ sở này là một trong nhiều địa điểm nằm tọa lạc trên một lãnh địa rộng 2832ha được vận hành bởi Trung tâm nghiên cứu trực thuộc Bộ Nông nghiệp Mỹ.
Ông Mike Frost (cựu nhân viên của Cơ sở an ninh truyền thông của Canada) đã mô tả trải nghiệm thời ông từng làm việc với SCS trong cuốn hồi ký năm 1994 của mình: “‘Đó không phải là bầu không khí sạch sẽ ở viện điều dưỡng như quý vị mong đợi sẽ tìm thấy tại một cơ cấu tuyệt mật. Dây điện có ở khắp nơi, nhìn đâu cũng thấy thiết bị, chỗ nào cũng có máy tính; một số người bận rộn trong bộ đồ 3 mảnh, số khác mặc áo sơ mi, bận quần jeans. Đây là trung tâm kỹ thuật và thử nghiệm tối ưu cho bất kỳ thiết bị gián điệp nào”.
Ông Frost cho biết thêm: “Có lẽ một trong những nơi lạ kỳ nhất ở đây là một địa điểm có tên là “căn phòng sống” rộng độ 2,7m2 nơi mà các thiết bị của NSA và CIA được đưa vào những cuộc chạy thử nghiệm, và ở đó các kỹ sư sẽ kích thích môi trường điện tử của các thành phố nơi triển khai các thiết bị nghe lén”.
Năm 2013 khi Edward Snowden cho rò rỉ các tài liệu tình báo mật của Mỹ, những bài thuyết trình nội bộ của SCS cũng bị lộ sáng. Một trong các trang đó giúp người ta nhìn thấy sự hiện diện toàn cầu của tổ chức này. Bên cạnh đó nên biết rằng các thiết bị mà SCS sử dụng rất khác so với các đơn vị chuyên biệt khác trong các cộng đồng tình báo và quân đội Mỹ đang sử dụng. Một số nhân viên trong bộ phận hoạt động đặc biệt sẽ mang vũ khí, nhưng các công cụ chủ yếu của tổ chức này vẫn là công nghệ Sigint.
Những công cụ này đã cho phép sĩ quan SCS đạt được cái gọi là “phép lạ gián điệp” cung cấp những bản ghi nguyên văn từ các cuộc họp cấp cao của chính phủ nước ngoài ở Châu Âu, Trung Đông và Châu Á. Ngược về quá khứ, đầu thập niên 1980, SCS đã dùng laser tàng hình nhằm đo độ rung trong các ô cửa sổ vốn được hình thành từ các cuộc trò chuyện của mục tiêu của SCS. Nhà báo James Bamford đã mô tả một trong những thiết bị đã được sử dụng, đó là một cây dù (ô) có thể biến thành cây ăng-ten chuyên thu thập các cuộc nói chuyện khi những từ khóa cụ thể được những mục tiêu sử dụng.
Điều khác biệt giữa SCS và các tổ chức khác là thiết bị thu thập tín hiệu của SCS có tính sáng tạo cao. Theo các tài liệu được phân loại được Edward Snowden tiết lộ thì SCS đã giải thích một số năng lực kỹ thuật của họ, chúng bao gồm (hoặc cũng có thể chưa công khai hết): điện toán đám mây; Tiếp cận ngoài khả năng truyền thống; trao quyền tự động hóa; phản ứng nhanh sự hiện diện Sigint; hạ tầng ảo thế hệ mới.
Phần lớn các công nghệ do SCS sử dụng đều được phân loại cao cùng khoa học tiên tiến. Chúng nắm giữ những năng lực quan trọng trong các thiết bị thu thập tầm ngắn chẳng hạn như những loại rệp điện tử hoặc các thiết bị thu thập và nghe lén khác. Chúng cũng duy trì năng lực quan trọng trong thu thập tầm xa.
Để làm được điều đó, chúng tận dụng những vệ tinh công nghệ cao, các trạm nghe lén từ xa, cùng một loạt công nghệ vi sóng, WiFi, WiMAX, GSM và CDMA. Thiết bị Cá Đuối là một minh chứng về công nghệ tiên tiến mà SCS sử dụng, nó có thể hoạt động như một tháp điện thoại di động, “đánh lừa sóng điện thoại di động kết nối với chúng thay vì các tháp hợp pháp khác. Điều này sẽ cho phép Cá Đuối đánh chặn các cuộc gọi và tin nhắn”.
Các hoạt động tình báo nổi tiếng
Theo một bài thuyết trình do Snowden công bố thì SCS có nhiều cơ hội trải nghiệm công nghệ tiên tiến vượt xa các tổ chức khủng bố. Vì là một tổ chức năng lực và nhạy cảm cao nên có rất ít thông tin chi tiết về các hoạt động của SCS. Tuy vậy theo thời gian, một số hoạt động mật của họ dần đã được hé lộ. Năm 2008, Mỹ đã hoàn thành việc xây dựng một tòa nhà đại sứ quán mới nằm ngay trong tầm nhìn của văn phòng Phủ thủ tướng Đức.
Tài liệu tình báo do Snowden công bố đã làm hé lộ một hoạt động thu thập tình báo nằm ngoài đại sứ quán Mỹ ở Berlin. Trong chính bản thân tòa đại sứ, một nhóm đặc vụ SCS đã vận hành hoạt động thu thập Sigint. Chiến dịch này đã xâm nhập vào điện thoại di động cá nhân của nguyên Thủ tướng Angela Merkel, và những người khác. Hoạt động thu thập dữ liệu này đã cho phép SCS giám sát chặt hơn các mục tiêu cùng định hướng chính sách đối nội và đối ngoại của Đức.
Sau khi chương trình nghe lén bị phát giác, bà Merkel “đã nhấc máy gọi phàn nàn tới ngài Tổng thống Barack Obama. Bộ trưởng Ngoại giao Đức Guido Westerwelle, cũng triệu hồi đại sứ Mỹ. Sự vụ này chỉ hé lộ một mức độ lan nhanh và sâu rộng trong các hoạt động thu thập tình báo của SCS. Hay chiến dịch Ngọn giáo Hải Vương diễn ra năm 2011 cũng liên quan đến SCS.
Năm đó Mỹ đặt mục tiêu tiêu diệt hoặc bắt sống Osama bin Laden tại phức hợp mà ông ta ẩn náu ở Pakistan. Đội 6 của Hải quân SEALs và nhánh mặt đất của CIA đã thu hút nhiều sự chú ý, nhưng chính SCS mới đóng vai trò then chốt làm nên sự thành công của nhiệm vụ này. Khả năng chặn tín hiệu của SCS cho phép họ lùng ra tung tích người đưa thư của Bin Laden dẫn đến một khu nhà lớn nằm ở ngoại ô thành phố.
Các đặc vụ đã biết được điều đó khi họ giám sát chặt chẽ các cuộc điện đàm của Bin Laden và lắng nghe các từ khóa trong lúc theo dõi ngôi nhà bị tình nghi. Khi cộng đồng tình báo Mỹ tiếp cận ngôi nhà của Bin Laden ở Abbottabad (Pakistan), các đặc vụ SCS đã hình thành một chiến dịch ngay trong nơi trú ẩn an toàn xuôi xuống một con đường nhìn từ ngôi nhà nhắm mục tiêu.
Từ nơi đó, các đặc vụ có thể đo được độ rung kính cửa sổ và những tín hiệu khác để quyết định số lượng các cá nhân bên trong những bức tường của ngôi nhà. Việc này đã cho phép họ quả quyết có một nhân vật chưa từng ra khỏi nhà, một mẫu bằng chứng mà từ đó đi đến kết luận rằng không nghi ngờ gì nữa, ngôi nhà chính là “sào huyệt” của Osama bin Laden.