Ichiro Kuroba - điệp viên mật Liên Xô ở Tokyo
Tháng 8/2008, các phương tiện truyền thông công bố thông tin được giải mật về hoạt động của một điệp viên mật Liên Xô được cử sang Nhật khoảng 30 năm trước. Tài liệu này chứng minh rằng nhờ một chiến dịch của Cơ quan Tình báo Đối ngoại Liên Xô, điệp viên mật đã thoát khỏi sự truy đuổi của lực lượng phản gián Nhật. Đối với người Nhật, danh tính của ông mãi mãi là một bí ẩn.
Chiến dịch cài cắm
Nhân vật của câu chuyện này đến đất nước Mặt trời mọc vào năm 1966 theo giấy tờ của công dân Nhật Bản Ichiro Kuroba mất tích vào năm 1965. Thực ra, ông thay thế cặp vợ chồng điệp viên mật Liên Xô - Shamil Hamzin và Irina Alimova đã hoạt động ở đây từ năm 1953.
Định cư tại Nhật Bản với cái tên giả, Ichiro Kuroba được nhận vào làm việc tại một công ty thương mại địa phương. Thời gian đó, ông làm quen với một cô gái trẻ người Nhật và quyết định xây dựng gia đình.

Sau khi kết hôn, nhà tình báo đã thông báo cho Trung tâm về việc hoàn tất thủ tục hợp pháp hóa danh tính. Trong suốt thời gian chung sống, người vợ Nhật Bản không hề biết chồng mình thực sự là ai. Giống như nhà tình báo Richard Sorge, ông cũng có tài diễn xuất.
Mãi 29 năm sau (năm 1995), lực lượng phản gián Nhật Bản mới lần ra dấu vết của điệp viên mật Liên Xô. Khi các nhân viên tình báo Nhật lên kế hoạch bắt giữ Ichiro Kuroba, câu chuyện về ông vẫn chưa bị tiết lộ. Nhưng đã 13 năm trôi qua, hộ chiếu của ông hết hạn. Cảnh sát cho rằng Ichiro Kuroba sẽ không xuất hiện ở Nhật Bản nữa.
Hành động
Cùng năm, tại Tokyo, KGB đã tiến hành điều tra vụ án liên quan đến một điệp viên của Cơ quan Tình báo Đối ngoại Liên Xô. Các cơ quan tình báo Nhật Bản định bắt cóc Đại tá Georgy Pokrovsky bằng cách bố trí một điệp viên Mỹ sống cùng tòa nhà với ông và huấn luyện những kẻ bắt cóc. Họ dự định bắt ông rồi tuyên truyền rằng đó là một vụ "đào tẩu tự nguyện sang phương Tây", như các chiến thuật đã từng được áp dụng trước đó.
Đại tá Georgy Pokrovsky vốn là một người rất khỏe mạnh, ông chơi quần vợt và quyền Anh. Nhờ vậy, ông đủ sức để chống trả những kẻ bắt cóc. Kết quả là điệp viên Mỹ đã bị gãy xương hàm.

Trong khi đó, Ichiro Kuroba được huy động tham gia chiến dịch truy tìm Thượng úy Không quân Liên Xô Viktor Belenko. Belenko đã đánh cắp chiếc máy bay do thám tối mật MiG-25P ở vùng Primorye, rồi hạ cánh xuống sân bay trên đảo Hokkaido. Y đã trao cho người Mỹ công nghệ hàng không quân sự hàng đầu thế giới với tốc độ gấp 3 lần tốc độ âm thanh. Khi Moscow quyết định trả đũa thì đã quá muộn - Belenko đã rời khỏi Nhật Bản.
Ngoài nhiệm vụ trên, điệp viên mật Liên Xô Ichiro Kuroba còn thực hiện các mục tiêu chiến lược. Đây là thời kỳ Nhật Bản triển khai chương trình phát triển hệ thống vệ tinh do thám. Từ năm 1966, Nhật Bản liên tục thử nghiệm phóng các vệ tinh với những cái tên kỳ lạ như: “Oozumi”, “Shisei”, “Denpa”, “Himawari”, “Jikiken”, “Sakura”, “Kiku”. Trong lĩnh vực chinh phục vũ trụ, Nhật Bản được Mỹ và Pháp hỗ trợ. Cơ sở tình báo của KGB ở Tokyo thường xuyên gửi cho Trung tâm những thông tin quan trọng về các dự án bí mật này.
Làm việc cho GRU
Có giả thuyết cho rằng Ichiro Kuroba làm việc cho GRU (Cơ quan Tình báo Đối ngoại của Bộ Quốc phòng Liên Xô). Giả thuyết này được cho là có cơ sở bởi các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, giống như trường hợp của điệp viên Richard Sorge, Ichiro Kuroba chủ yếu quan tâm đến các thông tin quân sự.
Thứ hai, nếu Ichiro Kuroba là người của KGB, thì tình báo Nhật đã sớm phát hiện ra ông vào năm 1979, khi nhân viên KGB tại Tokyo, Stanislav Levchenko, xin tị nạn chính trị ở Nhật. Levchenko đã tố giác toàn bộ nhân viên làm việc cho cơ sở tình báo của KGB ở Tokyo, cung cấp tên tuổi các nhân viên "Ban Nhật Bản" của KGB tại Trung ương và công khai danh tính khoảng 200 điệp viên nội gián, cộng tác viên người Nhật được KGB tuyển dụng từ năm 1972 đến năm 1979. Y gần như không biết gì và không thể biết về GRU, - vì ở đây sự bảo mật luôn được đặt lên hàng đầu!
Thứ ba, thời gian Ichiro Kuroba ở Nhật Bản trùng hợp với sự gia tăng mạnh mẽ hoạt động của các phần tử khủng bố địa phương được huấn luyện tại các trại đặc biệt của GRU trên lãnh thổ Liên Xô. Vào đầu những năm 70, các tay súng Nhật Bản thuộc phong trào gọi là "Hồng quân" đã thực hiện các kế hoạch được xây dựng kỹ lưỡng. Chúng thường xuyên cướp máy bay để bắt con tin và sau khi được đáp ứng yêu cầu, chúng trốn sang Bình Nhưỡng hoặc Algeria mà không bị trừng phạt.
Đôi khi chúng làm nổ máy bay (năm 1971, chuyến bay Sapporo-Tokyo khiến 162 người thiệt mạng; năm 1985, một chiếc Boeing 747 của Nhật Bản bị rơi gần Tokyo, làm 520 hành khách thiệt mạng; năm 1994, một chiếc Airbus A-300 nổ tung và cháy khi hạ cánh tại sân bay Nagoya, khiến 264 người thiệt mạng).
Các phiến quân Nhật Bản cũng không quên tấn công các mục tiêu trên mặt đất. Năm 1974, chúng tấn công Đại sứ quán Pháp ở Den Haag và bắt cóc 9 nhà ngoại giao làm con tin, trao đổi với các tù nhân, rồi bay tới Damascus. Một năm sau, tại Kuala Lumpur, các tay súng xâm chiếm lãnh sự quán Mỹ và Đại sứ quán Thụy Điển ở thủ đô Malaysia, chúng đã bắt cóc 53 nhà ngoại giao, nhận được những gì yêu cầu, chúng lên đường sang Libya.
Năm 1986, tại Jakarta, Đại sứ quán Nhật Bản, Canada và Mỹ đã bị chúng tấn công bằng súng phóng lựu. Một năm sau, chiến thuật tương tự được sử dụng ở Rome, nơi mục tiêu là Đại sứ quán Hoa Kỳ. Năm 1988, các phiến quân Nhật Bản đã kích nổ một quả bom tại câu lạc bộ Mỹ ở Naples, khiến 5 quân nhân Mỹ thiệt mạng.
Thứ tư, việc kết thúc vội vã chuyến công tác của Ichiro Kuroba ở Nhật Bản trùng với việc cảnh sát Nhật Bản bắt giữ các thủ lĩnh của giáo phái "Aum Shinrikyo", những người có thể biết về điệp viên mật này. Tháng 5/1995, cảnh sát Nhật đã bắt giữ thủ lĩnh mù Shoko Asahara của tổ chức tôn giáo mới ở Nhật Bản “Aum Shinrikyo”, sau vụ tấn công bằng vũ khí hóa học trên tàu điện ngầm Tokyo. Đến tháng 9 cùng năm, Fumihiro Joyu, kẻ đứng đầu chi nhánh “Aum Shinrikyo” tại Moscow, cũng bị bắt.
Cần lưu ý rằng vào thời điểm đó, lực lượng phản gián của Cục Tình báo Đối ngoại Liên Xô (SVR) tại Tokyo hoạt động rất hiệu quả. Tín hiệu về nguy cơ điệp viên mật bị lộ được giải mã kịp thời. Theo kế hoạch đã được chuẩn bị từ trước, tháng 9/1995, điệp viên Ichiro Kuroba đã cùng vợ rời Nhật Bản và an toàn trở về Moscow.

Sai lầm của phản gián Nhật
Sau khi Ichiro Kuroba biến mất, cơ quan phản gián Nhật Bản bắt đầu tìm kiếm các dấu vết và vật chứng liên quan đến hoạt động tình báo của ông. Khi lục soát ngôi nhà nơi Ichiro Kuroba từng sống, họ phát hiện ra một máy phát và các bảng mật mã. Một thời gian, người đứng đầu cơ quan an ninh Nhật Ichiro Ionzyama vẫn hy vọng Ichiro Kuroba sẽ quay lại ngôi nhà và có thể bắt giữ ông.
Ông ta cho rằng trong suốt 30 năm làm việc tại Nhật Bản, Ichiro Kuroba đã tuyển mộ được nhiều điệp viên mật. Rõ ràng, sau khi nhận được tín hiệu về thất bại của Ichiro Kuroba, mạng lưới điệp viên đã ngừng hoạt động. Vốn hiểu rõ người Nga, Ionzyama tin rằng các điệp viên này sẽ liên lạc với cơ sở tình báo của KGB tại Đại sứ quán. Theo chỉ đạo của Ionzyama, tất cả nhân viên của Đại sứ quán Nga đều bị giám sát chặt chẽ.
Sau này, việc phân tích các tài liệu giám sát phương tiện đi lại của các nhân viên Đại sứ quán Nga đã chứng minh điều đó. Ban đầu, lực lượng phản gián Nhật phát hiện ra các địa điểm người Nga thường xuyên lui tới. Sau đó, sử dụng các bản ghi hình của camera giám sát công cộng và tư nhân, họ tiến hành tìm kiếm các nhân vật xuất hiện nhiều lần trong các đoạn video ở những khoảng thời gian cụ thể. Đồng thời, báo chí đưa tin rằng đã phát hiện một người Nhật thường xuyên xuất hiện ở các khu vực mà các điệp viên Nga lui tới. Người này bắt đầu bị nghi ngờ là gián điệp của Nga.
Thông thường, cơ quan phản gián cố ý cho phép những "rò rỉ" như vậy nhằm mục đích đe dọa những kẻ có thể cung cấp thông tin mật cho cơ quan tình báo đối ngoại ở Đại sứ quán. Đôi khi, sự "vi phạm" nguyên tắc bảo mật như vậy được cơ quan phản gián đối phương sử dụng như một công cụ để tống tiền chính trị. Họ có thể nói rằng, ngay bây giờ, một cuộc xung đột Nga - Nhật có thể bùng nổ.
Cần lưu ý rằng từ thời xa xưa, việc các cơ quan tình báo của các quốc gia phát triển tiến hành hoạt động quân sự, chính trị và tình báo chống lại nhau đã trở thành hiện tượng bình thường.
Đồng thời, để tổ chức và thực hiện các vụ phá hoại, cần một hệ thống tình báo hoạt động tốt. Cơ quan tình báo đối ngoại ở Đại sứ quán không thích hợp với công việc này, vì một thất bại có thể gây ra những hậu quả chính trị nghiêm trọng. Do đó, chỉ có các điệp viên mật mới có thể đảm bảo liên lạc an toàn giữa những người tham gia chiến dịch với trung tâm chỉ huy trong nước, lên kế hoạch cho các chiến dịch, cung cấp vũ khí và giúp những người tham gia chiến dịch rời khỏi nước sở tại.

Vẫn chọn nghề cũ
Ở đầu bài viết này, chúng ta đã đề cập đến một cặp vợ chồng điệp viên mật Liên Xô: Shamil Hamzin (mật danh Khalef) và vợ ông, Irina Alimova (mật danh Bir). Năm 1966, sau khi hoàn thành chuyến công tác dài hạn tại Nhật Bản, họ trở về Moscow. Shamil Hamzin hoạt động bí mật ở nhiều quốc gia suốt hơn 20 năm. Năm 1980, ông nghỉ hưu với cấp bậc Đại tá. Sau đó, ông tham gia hoạt động xã hội trong một thời gian ngắn và qua đời vào năm 1991.
Thiếu tá Irina Alimova (trước đây là nữ diễn viên điện ảnh) nghỉ hưu vào năm 1967. Sau đó, bà vẫn tích cực tham gia hoạt động xã hội, gặp gỡ với các điệp viên trẻ, nhà báo và nhà văn. Trong một cuộc trò chuyện với người chỉ huy cũ, bà Irina nói: “Suốt đời, tôi đã đóng một vai khó khăn, không có diễn viên lồng tiếng hay người nhắc vở. Chúng tôi không được phép sai lầm - phía sau chúng tôi là một đất nước rộng lớn, không thể bị tổn hại vì những sai lầm của chúng tôi. Chúng tôi, tôi và Khalef đã cống hiến hết mình cho công việc của những người điệp viên. Còn về những khó khăn và căng thẳng tinh thần thì có rất nhiều. Nhưng thực ra, bất kỳ nghề nghiệp nào cũng có những khó khăn riêng. Và giờ đây, tôi có thể hoàn toàn tự tin nói rằng nếu phải bắt đầu lại cuộc đời, tôi vẫn sẽ chọn nghề cũ - nghề tình báo”.
Bà Irina Alimova qua đời năm 2011 ở Moscow.