Đi tìm "nhân chứng sống" ở Khám Chí Hoà

Thứ Sáu, 03/07/2009, 01:15
Trong quá trình đi "đào bới xới lộn" về lịch sử Khám Chí Hòa trong giai đoạn từ năm 1950 đến 1975, tôi đã được gặp một số nhân chứng sống quan trọng. Có thể khẳng định rằng, với những nhân chứng này, lịch sử Khám Chí Hòa trong thời kỳ họ bị giam giữ được hiểu rõ như lòng bàn tay.

Một trong những người ấy là ông Vũ Quang Hùng, nguyên Phó tổng biên tập Báo Công an TP HCM,  người nổi tiếng với nhiều phóng sự dài kỳ viết về thế giới ngầm. Những phóng sự  của ông thành công cũng một phần nhờ ông đã từng ở Khám Chí Hòa.

Vào những năm cuối của thập niên 80, khi Báo Công an TP HCM mới phát hành công khai, thi thoảng tôi cũng được gặp ông và tôi thực sự ngưỡng mộ ông không những về các phóng sự đầy ắp tư liệu, giàu chi tiết, viết lại có văn mà ông còn là người lịch lãm, có "phông" văn hóa rộng lớn. Ông am hiểu tiếng Pháp ở mức đọc tiểu thuyết tiếng Pháp bằng nguyên bản; khá am hiểu triết học phương Đông qua các bộ Tứ thư, Ngũ kinh... Ông đã 2 lần bị bắt giam ở nhà tù Chí Hòa; đã từng bị đày ra Côn Đảo.

Cuối năm 1965, ông là Chủ tịch Phong trào Thanh  niên - Sinh viên vận động hòa bình. Ông bị bắt và bị xử 5 năm cấm cố và 5 năm biệt xứ. Ông bị giam ở Chí Hòa từ năm 1965 đến 1967 thì bị đày ra Côn Đảo, sau đó ông được thả. Trở về Sài Gòn, ông tham gia vào Đội Trinh sát vũ trang an ninh T4.

Tháng 5/1972, ông bị bắt về tội ám sát Nguyễn Văn Bông, Viện trưởng Học viện Quốc gia hành chính, Chủ tịch Phong trào quốc gia cấp tiến, đang chuẩn bị lên làm thủ tướng. Ông bị giam ở Chí Hòa 1 năm, Tòa án Quân sự kết án ông tù chung thân rồi lại đày ông ra Côn Đảo.

Trong thời gian ông bị giam ở Chí Hòa, ông đã chứng kiến đây là một thế giới riêng và phòng giam nào cũng có những người cầm đầu. Nếu như là tù thường phạm thì gã cầm đầu ấy được gọi là đại bàng và có quyền sinh, quyền sát ở trong buồng giam, thậm chí thoải mái kiếm tiền và cuộc sống trong tù đối với đại bàng cũng có phần "vương giả", còn với anh em tù chính trị thì lại khác hẳn. Những ngày ở tù đó là chuỗi ngày được rèn luyện, hun đúc ý chí chiến đấu đồng thời tận dụng mọi cơ hội để học tập. Học ở đây rất đa dạng, từ học chữ đến học chính trị, văn hóa. Ông kể lại:

"Một trong những cách để thời gian qua mau trong tù hơn cả là học (và dạy học). Chí Hòa là nơi khá tốt cho những ai ham học: Khác với khi bị giam ở Tổng nha Cảnh sát, còn phải lo để tâm trí đối phó với chuyện thẩm vấn và với những cực hình tra tấn của kẻ địch; khác với ra Côn Đảo phải đi làm khổ sai thì hết ngày và nếu ở biệt giam chỉ 2-3 người một phòng nên điều kiện học khó khăn hơn, lại xa cách đất liền nên sách vở gửi vào không thuận lợi.

Anh em ở Khám Chí Hòa do trình độ văn hóa không đồng đều nên tổ chức lớp học hơi khó khăn, nhưng nếu dạy ngoại ngữ lại tương đối dễ, bởi cứ bắt đầu từ vỡ lòng. Tôi còn nhớ lúc ấy số sinh viên học sinh chúng tôi mở lớp học tiếng Pháp, và phát động phong trào học tiếng  Hán phổ thông (Trung Quốc).

Cũng có những anh em tự học tiếng Anh, dặn người nhà mua sách gửi vào, tùy theo bộ sách mình thích và trình độ của mình. Riêng tôi, học theo bộ “English for foreigner students” (Anh ngữ dành cho sinh viên nước ngoài), cứ thế ngấu nghiến học hết, sau đó nói người nhà gửi tạp chí Reader Digest rèn luyện thêm (nhờ vậy nên khi ra Côn Đảo chỉ cần học thêm tự điển).

Tôi phụ trách lớp dạy tiếng Pháp. Ở ngoài, cấp trung học tôi mới học hết cuốn 3 “Langue et Civilisation Francais”, sau đó lên đại học, có những giáo sư người Pháp từ Đại học Sorbonne qua dạy, nên trình độ tiếng Pháp của tôi cũng tàm tạm. Lúc ở khu F-G, tôi tự học hết cuốn 4 “Langue et Civilisation Francais”, giờ qua đây dạy anh em vỡ lòng tiếng Pháp.

Tôi còn nhớ chỉ một năm sau, gần chục anh em đã học đến nửa cuốn 2 “Langue et Civilition Fancais”, và tôi còn bày anh em đọc toa thuốc tây người nhà gửi vào bằng tiếng Pháp (để anh em đỡ "ngán" và học thực tế như vậy có phần dễ tiếp thu hơn).

Về tiếng  Hán phổ thông, chúng tôi  kiếm  được bộ sách sơ tiểu để học vỡ lòng. Đọc theo âm tiếng Hán thì đã có thầy Hành Tuệ; âm đọc theo tiếng Hán  phổ thông có chua ngay bên cạnh chữ, trong sách, và có đàn anh Lê Đảnh biết láp ngáp chỉ dẫn thêm. Không có thầy dạy chúng tôi chuyền tay nhau mạnh ai nấy học, học nhanh hay chậm tùy theo từng cá nhân có chịu khó học và trí nhớ có tốt hay không. Do tự học, có khi chúng tôi phát âm sai cũng chẳng biết. 

Ai học hết sơ tiểu đã có bộ cao tiểu. Hết cao tiểu lại có tiếp sơ trung. Nhưng hết sơ trung thì không đào đâu ra bộ sách cao trung nữa! Đến đây tôi còn nhớ không biết tại sao và bằng cách nào, trong phòng có bộ truyện chưởng "Ngân kiếm kim đao" bằng tiếng Hán, và tôi cứ thế nghiền ngẫm, say mê đọc... Chữ nào không biết nghĩa cách phát âm đã có tự điển tứ giác tra theo số khá nhanh và tiện dụng (chỉ sau thời gian  ngắn là quen cách tra này, thấy cũng chẳng khác bao nhiêu so với tự điển chữ cái Latinh).

Rồi  chúng tôi đọc truyện Kiều, học những chữ Hán, những điển tích mà văn hào Nguyễn Du đã chuyển thành thơ trong truyện...

Cũng có thời gian chúng tôi mở lớp dạy toán cho anh em, nhưng do trình độ anh em quá chênh lệch, lại học bữa học, bữa không cho nên lớp sớm đóng cửa!

Ở trong tù còn  có một chuyện học rất quan trọng nữa, đó là  học những bài thơ và  bài hát cách mạng.

Bất cứ ai thuộc bài thơ hoặc bài hát nào đều truyền miệng lại cho anh em khác, đôi khi có sai một hai chữ cũng không thành vấn đề. Hồi ấy tôi nhớ những bài hát hay được truyền miệng nhất là "Dấu chân trên rừng", "Tiếng đàn Ta Lư", "Em Rít", "Em bé Giải phóng quân", "Tiếng hát sông Hồng", "Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây", "Tiếng chày trên sóc Bom Bo"... Còn thơ thì có những bài như "Cô du kích" (bài thơ của Giang Nam, đầu đề không dám chắc đúng), "Người con gái Việt Nam” viết về chị Trần Thị Lý, "Bầm ơi" và nhiều bài thơ của Bác Hồ và của Tố Hữu.

Học kiểu này không tổ chức thành lớp, không có thầy trò (có khi vừa là thầy, vừa là trò: dạy bài hát này, nhưng học lại bài thơ khác), không có sách vở - ghi lại mà bị bọn trật tự hoặc giám thị bắt được thế nào cũng bị ăn đòn.

Có những tối - nhất là những ngày lễ kỷ niệm - anh em tù nhân tự dựng "sân khấu" thay nhau lên hát hoặc đọc thơ. Có thể nói ai đã ở tù một thời gian, thế nào cũng có một số bài thơ và bài hát "lận lưng" làm vốn. Ở tù càng lâu, càng thuộc nhiều, "vốn" càng lớn.

Kiểu "học" sau cùng này cũng là một cách rất tốt để anh em động viên nhau giữ vững khí tiết cách mạng. Chẳng hạn lúc nằm một mình lẩm nhẩm ôn lại những câu như: "Gạo đem vào giã bao đau đớn/ Gạo giã xong rồi trắng tựa bông".--PageBreak--

Ở Chí Hòa thường giam những người đã thành án, hoặc đang trong thời gian chờ xử án cho nên ăn, uống cũng không đến nỗi quá cực khổ như ở các trung tâm thẩm vấn khác. Trại Chí Hòa thời kỳ này thường có đến 5-6 ngàn phạm nhân được giam ở 238 buồng lớn, bé khác nhau. Khu hỏa thực có cách nấu cơm rất lạ. Họ nấu cơm trong những chảo lớn khi cơm vừa cạn hết, thì lấy xẻng xúc ra, đắp lên nền ximăng và rồi cơm tự chín.

Cơm ở trại ăn thì tạm đủ no nhưng do cách nấu như vậy nên hay bị sống, thức ăn mỗi tuần có 2 bữa thịt, nhưng chủ yếu là thịt mỡ và mỗi miếng thịt phải “cõng” cả chục miếng củ cải nhưng dù sao cũng còn có “hơi thịt”. Tù nhân ở đây sợ nhất là ăn mắm cá sống mà thường là cá linh ướp thính, dòi bọ lúc nhúc. Muốn ăn tay trái cầm đuôi con cá lên, tay phải cầm đũa kẹp cá vuốt từ trên xuống đuôi cho dòi rơi hết rồi mới ăn. Và nhiều khi cũng ăn luôn cả dòi ở trong thân cá.

Thời đấy nhà tù Chí Hòa giam không ít sư sãi. Có một nhà sư ở trong tù được anh em nhớ mãi đó là Đại đức Thích Hành Tuệ. Đại đức Thích Hành Tuệ tên thật là Nguyễn Thới và tham gia hoạt động Cách mạng tại Sài Gòn, bị bắt vào khoảng cuối năm 1965. Trong thời gian từ năm 1966 đến hết năm 1967, Đại đức bị giam ở lầu 3D thuộc Khu E-D. Khu này đúng ra thường dùng để nhốt thường phạm và đã bị khép án tử hình. Nhưng do tù nhân đông quá nên kẻ địch phải chuyển một số sinh viên, phật tử lên trên này.

Đại đức Thích Hành Tuệ vốn giỏi chữ Hán nên có nhiệm vụ giúp anh em học chữ. Tuy nhiên, anh em lại thích đọc theo âm quan thoại mà thầy lại không biết cách đọc này cho nên thầy lại vui vẻ học cùng anh em. Thầy là người uyên bác, rất giỏi Phật pháp, lại vui tính, sẵn sàng hòa mình cùng với anh em.

Tại Chí Hòa ăn sáng luôn là món cháo. Hôm nào đến phiên trực, chia cháo cho anh em, thầy kêu: "Cháo! Ăn cháo đi!", nhưng với âm Quảng Nam, nghe thành "Chó! Ăn chó đi!". Tù nhân xúm nhau chọc thầy tu hành sao lại ăn "chó" và mời mọi người cùng ăn. Thầy cũng chỉ cười trừ!

Hành lang của một khu giam.

Có một câu chuyện rất hay về Đại đức Thích Hành Tuệ thế này.

Bữa ấy, chúa ngục là trung tá Luyến tới thăm Khu E-D. Không hiểu cao hứng thế nào, hắn cầm cây can chỉ ngay vào thầy Hành Tuệ và hỏi: "Này, này, ông tu thật hay làm bộ tu vậy? Thầy Thích Hành Tuệ điềm nhiên trả lời: "Thưa trung tá, tôi xuất gia từ hồi nhỏ". "Ông tu đến chức gì rồi. Vào đây còn ăn chay không?" - "Tôi trước khi bị bắt là đại đức. Tôi ăn chay từ khi xuất gia, đến bây giờ vẫn vậy". Chúa ngục Luyến hình như  muốn "thử tài" xem thử thầy có đi tu thật hay không,  hắn hất hàm: "Vậy ông giải thích tôi nghe, tại sao vô chùa lễ lại thắp ba nén nhang, mà không phải một, hai hay bốn, năm nén?".

Số tù nhân đang đứng bên cạnh chợt im phăng phắc, vì quả thật chẳng ai hiểu phải thắp hương ba nén.

Đại đức Thích Hành Tuệ ung dung hỏi lại: "Xin lỗi trung tá, cho tôi được hỏi": "Trung tá lấy tư cách một quản đốc hỏi một tù nhân hay tư cách một phật tử hỏi một đại đức?". Có lẽ cũng bất ngờ trước câu hỏi ngược, chúa ngục Luyến không biết trả lời sao và cầm cây can lắc lắc... Mãi sau mới đáp: "Tôi hỏi thầy với tư cách một phật tử".

Thầy Hành Tuệ từ tốn: "Nếu phật tử đã thành tâm hỏi, thì để thầy nói con nghe. Ba nén nhang là tượng trưng cho Tam bảo: Phật, Pháp, Tăng. Bất cứ ai khi xuất gia đều phải quy y Tam bảo tức quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng...". Rồi thầy thao thao bất tuyệt giảng giải rằng tại sao lại gọi là Phật?  Người tu hành đến đâu thì được gọi là Phật? Rồi thế nào là Pháp, thế nào là Tăng...

Vậy là chỉ bằng một câu hỏi, thầy đã lật ngược thế cờ rất "đẹp". Tù nhân đứng lặng người, chúa ngục Luyến cũng nghiêm chỉnh nghe lời thầy giảng, mấy tay giám thị đi theo quản đốc không biết làm gì khác ngoài việc cứ đứng đực mặt, dỏng tai ra nghe như nuốt từng lời.

Cũng từ đó về sau, bọn giám thị Khu E-D có vẻ trọng nể thầy Hành Tuệ hơn, và tù nhân cũng được "ăn theo". Được đối đãi đàng hoàng  hơn như cơm sống được quyền tới tận khu hỏa thực đổi, giờ tắm nắng nếu có trễ chút cũng chẳng bị cai ngục chửi bới hoặc rượt đánh...

Cuối năm 1967, thầy bị đày ra Côn Đảo và giam tại Trại 7. Đầu năm 1970, thầy bị viêm phổi cấp tính và mất ngay tại chuồng cọp. Sau này bài vị thờ thầy được anh em tù nhân đưa về đặt tại chùa Diệu Pháp, quận Gò Vấp.

Trong thời kỳ chế độ Sài Gòn cũ có rất nhiều nhà sư bị bắt và đưa vào Chí Hòa hoặc đày đi Côn Đảo. Ví dụ theo báo cáo ngày 15/5/1968 của Ban quản đốc Khám Chí Hòa thì số lượng người bị giam ở Khu E-D như sau: tù chính trị 1.655 người, tù thường phạm 90 người, quân nhân bị tù 125 người. Tổng cộng 1.870 tù nhân. Trong số này có 1.135 người theo đạo Phật.

Còn theo điều tra của Hạ nghị sĩ Mỹ J.Cô-nai-óc công bố vào tháng 7/1969 thì trong 1.655 tù chính trị chỉ có 50 người là Cộng sản; còn lại là nông dân, công nhân lao động và họ bị bắt bởi rất nhiều lý do như  chống quân dịch, có những biểu hiện không hợp tác với chính quyền hoặc bị nghi là Cộng sản.

(Còn nữa)

N.N.P.
.
.