Lũy thành hồn hậu: Biên cương là quê hương
"Ngu Công" xã Trịnh Tường
"Các em hãy mở sách Tiếng Việt lớp 5, trang 164. Hôm nay chúng ta sẽ tập đọc bài "Ngu Công xã Trịnh Tường" để biết về một người dân tộc Dao sống tại vùng biên giới tài giỏi…", lời giảng của cô giáo Trường tiểu học Gia Thượng, Hà Nội về tấm gương ông Phàn Phù Lìn - người được mệnh danh là Ngu Công của vùng biên giới Bát Xát, tỉnh Lào Cai đã thôi thúc tôi vượt đèo đổ dốc để lên Phìn Ngan, một trong những bản cao nhất Trịnh Tường. Ngang lưng núi Khe Mềnh, nhà của "Ngu Công" Phàn Phù Lìn ẩn dưới tán những cây ngõa xanh sẫm tỏa bóng mát cả một vùng núi. Hút tít phía chân núi, dòng Lũng Pô như sợi chỉ hồng là đường biên giới tự nhiên giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc hối hả đưa nước về xuôi.
Ông Phàn Phù Lìn trao đổi tình hình an ninh trật tự thôn bản với cán bộ Đồn Biên phòng Trịnh Tường. |
Người đàn ông 50 tuổi đầy khát vọng chinh phục năm xưa giờ đây đã là một cụ già 85 tuổi có nụ cười rất hiền. Hỏi cụ về những tháng ngày xẻ núi dẫn nước, cụ chỉ cười bảo hồi ấy nghèo khó quá thì phải quyết tâm thoát nghèo. Mặc dù được Đảng, Nhà nước có nhiều chính sách hỗ trợ, song việc ổn định sản xuất lâu dài còn nhiều trắc trở do thiếu nguồn nước sinh hoạt và sản xuất. Phàn Phù Lìn thấy những cánh rừng bị bà con đốt cháy nham nhở do tập quán phá rừng làm nương của bà con mà xót lòng quá. Lại thấy người Hà Nhì ở Y Tý được bày cách trồng cây lúa nước trên ruộng bậc thang mà no đủ, ông quyết dẫn nước từ Khe Mềnh về làm ruộng.
Khe Mềnh cách bản Ngan nửa ngày đường, cây cối rậm rịt, đá cứng như sắt. Chỉ với một chiếc xà beng phá đá, cuốc bàn và chiếc xẻng xúc đơn sơ, suốt 6 tháng trời ông Lìn thi gan với đá, mũi chân húc vào đá tóe máu, đôi tay đánh gốc cây rừng nhợt cả da tay; ngày hai bữa cơm độn ngô với rau rừng, muối rang… Cảm phục trước ý chí của ông, nhiều bà con trong bản đã đến giúp. Cuối cùng thì núi cũng phải bạt trước sức người, con mương dài gần 4 km dần thành hình dẫn nước về bản.
Với hơn 20 ha ruộng lúa nước xanh tốt, người dân Phìn Ngan đã không còn lo thiếu đói. |
Đi thăm Khe Mềnh, sau làn mây ửng hồng, chúng tôi thấy một mương nước tựa con trăn gió đang rẽ đá sầm sập đưa nước từ lòng khe sâu đổ xuống cả triền ruộng bậc thang rộng hơn 20 ha đang vào kì làm đòng. Trong nắng trưa, dòng nước len lỏi qua các bờ lạch sáng lấp lánh. Người Dao, người Mông ở Phìn Ngan không gọi là mương Khe Mềnh mà hay gọi là mương ông Lìn, tên người khai phá ra dòng nước vàng, nước bạc này từ năm 1987, cũng là người đã trị thủy, "se duyên" nguồn nước bạc và cây lúa nước để làm ra hạt thóc vàng. Năm ấy cũng vừa đúng lúc Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới, Nhà nước giao đất, giao rừng cho người dân làm chủ.
Từ đó, người Phìn Ngan không phát rừng nữa, các hộ dân giúp nhau cải tạo nương cũ bạc màu thành ruộng bậc thang. Người Phìn Ngan chấm dứt cảnh di canh di cư, đề ra hương ước cùng nhau bảo vệ rừng đầu nguồn để giữ nước sản xuất. Phìn Ngan bây giờ nổi tiếng với cây thảo quả được trồng dưới tán rừng già, hình thành nên vùng thảo quả hàng hoá rộng hơn 80 ha. Có nghĩa là cũng chừng ấy diện tích rừng đầu nguồn được khoanh nuôi, bảo vệ, mỗi năm đem về cho người dân nơi đây gần chục tỉ đồng.
Tuổi cao, gương sáng… ông Phàn Phù Lìn giờ đây đã trở thành một lão nông có uy tín nhất trên đỉnh rừng này. Không chỉ làm kinh tế giỏi, nhiều năm liền tham gia công tác mặt trận của xã, ông còn là tấm gương sáng về nuôi dạy con cái, gìn giữ gia phong, bản sắc văn hoá tốt đẹp của dân tộc mình.
Cụ già trên đỉnh trời biên giới Việt - Trung ấy xứng đáng với tấm Huân chương Lao động hạng Ba và lời thư khen của Chủ tịch Nước Trần Đức Lương: "Tôi rất vui mừng được biết, ông là người đầu tiên ở thôn Phìn Ngan mạnh dạn, không nản chí phá bỏ tập tục phá rừng làm nương rẫy lâu đời của người Dao; vận động gia đình và bà con trong thôn bản san đất làm ruộng, tìm cách dẫn nước để biến những đám nương hoang hoá thành ruộng bậc thang trồng lúa nước, đạt năng suất cao...".
Cụ già "cột mốc" trên đỉnh Pù Đứa
Nếu đỉnh Phìn Ngan tự hào với lão nông người Dao Phàn Phù Lìn, thì những người Mông ở Mường Lát, Thanh Hóa cũng có một vị thần "cột mốc" mà họ trân trọng. Già làng Lâu Văn Hự, người đảm nhận trông coi hai cột mốc biên giới trên đỉnh núi cao nhất xứ Thanh đón chúng tôi giữa lưng chừng trời. Chợt lòng lan tỏa một cảm giác ấm áp khi tôi được nắm chặt tay một cụ già người bé nhỏ, rắn chắc và ánh mắt tinh anh lạ lùng.
Già làng Lâu Văn Hự bên cột mốc 304 (hay còn gọi là G8). |
Con cón trên vai già vẫn là chiếc túi vải có chứa nắm cơm, lưng giắt con dao quắm… ngày đông tháng giá hay ngày hạ nắng hanh cũng chỉ có những thứ ấy làm bạn đường cùng già. Còn chúng tôi thì đoán chắc với nhau rằng, thứ vô giá trong hành trang mà lão niên người Mông ấy khiêm nhường không nói tới chính là tình yêu mãnh liệt đối với mảnh đất biên cương…
Già Hự từng là Bí thư chi bộ bản Pù Đứa, đã đồng hành cùng cán bộ chiến sĩ Đồn biên phòng Quang Chiểu vận động bà con định canh, định cư ổn định cuộc sống lâu dài. Nói về việc bao năm tình nguyện đảm nhiệm trông coi cột mốc G8 nằm cách nhà nửa ngày đường, cách mặt nước biển trên một ngàn mét để kiểm tra mà không đòi hỏi được trả công, dù chỉ một đồng, già Hự bảo đó là để trả cái nghĩa mà BĐBP đã giúp dân tộc ông, bản làng ông được định cư tại đất này và có được sự bình yên, no ấm hôm nay.
Suốt nửa đời người, cái chân đã quen dốc mến đèo, đã thuộc rừng, bén suối để mỗi tháng vượt hơn chục cây số lên với "điểm tựa tinh thần" của mình, nay đã bước sang tuổi 93, già Lâu Văn Hự không còn đủ dẻo dai để lên với G8 (sau khi tôn tạo, tăng dày cột mốc có phiên hiệu là cột mốc 304) - cột mốc cao nhất, xa nhất và khó đi nhất phân định ranh giới giữa xã Quang Chiểu với bản Phiềng Khạy thuộc cụm Mường Pùn, huyện Viêng Xay, tỉnh Hủa Phăn, Lào. Vậy nên già Hự mong mỏi trước khi về với tổ tiên là được đặt chân lên nơi thân thuộc ấy một lần nữa. "Đối với tôi, cột mốc G8 cũng giống như cha mẹ mình, giống như Bác Hồ đang đứng cạnh tôi. Tuy Bác đã đi xa nhưng tấm gương của Bác còn soi sáng trong tôi".
Đường lên cột mốc dài gần 14km với nhiều quãng quanh co, hiểm trở. |
Chúng tôi theo hành trình "dối già" của già Hự đến với G8 như sau: Điểm đến là đỉnh núi Đá Đỏ có độ cao 1.889m so với mặt nước biển. Quãng đường dài khoảng 13km luồn rừng, vượt dốc mà đặc biệt nguy hiểm là ngọn Đá Đen "kỳ đà cản đường" dài ngót 5km với vách đá tai mèo dựng đứng. Và tất nhiên cách di chuyển hữu hiệu nhất là đi bộ với tốc độ ổn định cũng phải mất hơn nửa ngày mới tới nơi trong điều kiện thời tiết tốt, không mưa lũ… Đường đi khó, dẫu rằng theo miêu tả của già Lự thì đã tốt hơn cách đây 30 năm gấp trăm lần. Bởi ngày ấy, năm 1984 làm gì có đường mà phải tự phát quang dọn cỏ mà đi, tự tìm hướng mà đến.
"Lên trên đó xa lắm, bố phải đi từ sáng tinh mơ. Cả đi cả về mất gần trọn 1 ngày. Vượt qua 15 khe suối, trong đó có 2 con suối lớn là suối Dục và suối Tiền Xen, vượt qua được 4 đỉnh núi cao là núi Tơ Lưng, Đá Đen, Pù Lậu và đỉnh núi thác Đá Đỏ, nơi có cột mốc biên giới G8. Gặp hôm trời trở mưa, bố phải ở lại rừng cả tuần trời mới về được tới nhà" - vừa đi, già Hự vừa nhẩn nha nói với chúng tôi như vậy. Sau chuyến đi này, các ông Lâu Văn Lự, Lâu Văn Lâu, Lâu Văn Lênh... ba người con trai cũng đang sắp "ra lão" của già Hự đã được giao trọng trách thay cha bảo vệ đường biên mốc giới.
Theo suy nghĩ của già, đây là vùng biên giới giáp với nước bạn Lào nên nếu cột mốc bị hư hại sẽ dẫn đến nhiều việc đáng tiếc, dễ gây hiểu nhầm, ảnh hưởng đến tình đoàn kết của hai nước. Sau mỗi "chuyến đi thực tế", già ghi chép cẩn thận những thông tin thu thập được vào một cuốn sổ nhỏ và báo ngay với Đồn Biên phòng Quang Chiểu về hiện trạng cột mốc. Công việc nghe thì đơn giản, nhưng có băng rừng, vượt núi để lên tận cột mốc, mới thấy để duy trì được việc đó trong dăm ba năm đã là sự cố gắng lớn, chứ chưa nói đến quãng thời gian dài đằng đẵng gần bằng cả đời người như già Lâu Văn Hự.