Nạn tảo hôn của người Mông ở Sơn La: Những lời vui buồn

Thứ Tư, 22/10/2008, 09:00
Tại Sơn La, một tỉnh của vùng cao Tây Bắc, nơi có 114.578 đồng bào Mông sinh sống, nạn tảo hôn vẫn chưa được xóa bỏ. Theo thống kê chưa đầy đủ của Sở Tư pháp Sơn La, trong năm 2007 và 6 tháng đầu năm 2008, tại 10 huyện miền núi của tỉnh, đã có hơn 500 trường hợp vi phạm Luật Hôn nhân gia đình, kết hôn chưa đủ tuổi. Nhiều hậu quả xấu gây ra cho những cặp vợ chồng nhỏ tuổi và cả xã hội cũng đã xuất phát từ chính hủ tục này.

Lấy chồng từ tuổi... 13!

Xã Hồng Ngài, huyện Bắc Yên, quê hương của "Vợ chồng A Phủ" (tiểu thuyết của nhà văn Tô Hoài) với 80% dân số là đồng bào Mông, nạn tảo hôn vẫn còn hằn đậm. Bản thân Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc (MTTQ) xã - anh Giàng A Tù (người dân tộc Mông) cũng là một "người trong cuộc" của hủ tục này.

Anh Tù chẳng giấu giếm câu chuyện của chính mình. Anh Tù vốn là con trai lớn trong nhà. Dưới anh còn có 5 người em nhưng lại đông con gái. Năm anh Tù 14 tuổi, bố mẹ anh cùng với nhiều người lớn trong họ đã dẫn anh đi "cướp vợ" về để nhà có thêm người làm. Vợ anh Tù hơn anh 1 tuổi.

Hai năm sau, anh chị sinh con. Chỉ trong vòng 8 năm vợ chồng anh Tù đã có 5 đứa con. Sống với nhau chẵn 10 năm, vì hoàn cảnh gia đình khó khăn, lại lao động vất vả, con cái nheo nhóc, vợ anh Tù đã đổ bệnh và chết.

Năm 27 tuổi, anh Tù cưới vợ lần thứ 2. Người vợ này lại sinh cho anh thêm 2 đứa con. Năm nay, anh Tù mới 37 tuổi nhưng có 7 đứa con và đã lên chức ông ngoại, trong đó, tuổi của cháu ngoại anh Tù chỉ kém cậu nó vài tháng! Anh kể, con gái thứ của anh, cháu Giàng Thị Chả, năm 2002, mới đang học lớp 5 vì đi học muộn (13 tuổi) đã bị "nhà người ta" ở bản Lũng Tan bắt về làm vợ. Năm nay, cháu 17 tuổi nhưng đã là mẹ của hai đứa con!

Tại bản Mới, vợ chồng Hạn Thị Dua và Mùa A Phình cũng lấy nhau từ năm 14 tuổi. Năm nay, cả hai vợ chồng Dua và Phình mới 35 tuổi, có 6 người con và đã lên chức ông, bà nội. Rất may, con trai lớn của họ là Mùa A Lồng 20 tuổi mới lấy vợ. Nghe theo bạn bè, vợ chồng Lồng xuống thị xã để làm ăn. Thế là "ông, bà" nội Hạn Thị Dua và Mùa A Phình vừa nuôi con nhỏ, vừa chăm cháu. Cuộc sống của cả gia đình họ chỉ trông vào hai vụ ngô trong năm.

Anh Giàng A Tủa, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân (HĐND) xã Hồng Ngài cho biết, vào mùa "cướp vợ" vừa rồi (cũng là mùa cưới của đồng bào Mông, thường diễn ra vào dịp tết Âm lịch của người Kinh) xã Hồng Ngài đã chứng kiến 10 cặp vợ chồng tổ chức đám cưới khi đang ở độ tuổi vị thành niên. 

Đó là trường hợp của Giàng Ca Xu (14 tuổi) ở bản Hồng Ngài đã được các  anh của mình "dìu" đi "cướp" một cô gái hơn mình 2 tuổi là Mùa Thị Chua về làm vợ! Đặc biệt là trường hợp của Giàng A Ký (12 tuổi) cũng ở bản Hồng Ngài, vì nhà nghèo, bố mẹ đều ốm nên đã được các bác bên bố  đưa đến "cướp" cô Thào Thị Khoa hơn tới 6 tuổi về làm "vợ" và làm nương rẫy. Còn cặp vợ chồng Giàng A Khoa (12 tuổi) và Sùng Thị Dua (14  tuổi) lấy nhau rồi  vẫn "chưa biết làm gì". Anh Giàng A Tủa cho biết, tuần trước, anh vẫn còn trông thấy A Khoa đi chăn trâu với đám trẻ, đêm về A Khoa lại ngủ với mẹ, còn Dua theo bố mẹ chồng đi làm nương...

Cuộc sống của phụ nữ Mông.

Theo Hội Phụ nữ Bắc Yên, cả huyện có 60% dân số là người Mông chiếm tới 57,8% số hộ nghèo, nạn tảo hôn vẫn tồn tại. Điển hình là các xã Hồng Ngài, Tả Sùa, Nàng Chếu, Sín Vàng và Thắng Trú. Sở dĩ hủ tục này còn ăn sâu bám rễ đến ngày nay vì nó bắt nguồn từ tập tục làm nương của đồng bào Mông.

Với kiểu canh tác nhỏ lẻ, chủ yếu là trồng trọt trên các triền núi cao nên từ lâu, người phụ nữ Mông vốn trở thành lao động chính trong gia đình. Vì vậy, gia đình người Mông nào có đông người làm trong nhà có nghĩa là sẽ có nhiều của ăn, của để. Từ suy nghĩ đó, họ rất muốn con trai của mình lấy vợ sớm để có thêm người làm, vừa sớm sinh con đẻ cái, có thêm nhiều lao động.

Ngoài ra, quan niệm "trọng nam, khinh nữ" cũng còn rất rõ ở đây. Người Mông cho rằng, người vợ chỉ  ngang hàng với các vật nuôi khác trong nhà. Lấy vợ về là để phục vụ. Người chồng có thể lấy vợ sớm vì có quyền năm thê, bảy thiếp. Hiện nay, tại một số xã của Bắc Yên, người Mông vẫn duy trì một số tập tục sinh hoạt như, người vợ không bao giờ được ngồi cùng mâm với chồng. Nếu gia đình nhà chồng có khách, người vợ ấy phải phục vụ thâu đêm, suốt sáng cho đến khi tiễn khách ra về. Họ chỉ được ăn những đồ còn sót lại... Cuối cùng, tất cả những hủ tục lạc hậu này đều đè nặng lên vai người phụ nữ.

Những bản làng không còn yên tĩnh

Vì làm vợ, làm mẹ sớm nên nhiều  nữ thanh niên dân tộc Mông thường sinh đông con, ảnh hưởng rất nhiều tới sức khỏe của bản thân và con cái họ. Ngoài ra, phải lam lũ làm ăn, gánh vác công việc nương rẫy, lo phục vụ công việc nhà chồng nên họ  không được đi học. Mù chữ khiến họ không hiểu biết, không biết cách nuôi dạy con và cũng không biết cách giải thoát cho chính bản thân mình, họ như ở trong một cái vòng luẩn quẩn.

Mấy năm trở lại đây, khi 201 xã của tỉnh miền núi Sơn La được thông đường, cuộc sống của đồng bào dân tộc Mông và 11 dân tộc khác trên địa bàn tỉnh đã đổi thay. Tuy nhiên, khi kinh tế xã hội bước đầu được cải thiện nhưng trình độ hiểu biết của người dân vẫn còn lạc hậu nên từ các hủ tục cũ phát sinh thêm nhiều tệ nạn mới.

Anh Giàng A Tủa, Phó chủ tịch HĐND xã Hồng Ngài kể lại, xuất phát từ hủ tục "cướp vợ", nhiều gia đình phía cô gái cho rằng mình bị mất con. Đặc biệt, khi về đến nhà chồng, những cô gái phải lao động vất vả, lại không được đối xử tử tế nên đã có nhiều gia đình đến tận nhà thông gia để "kéo" con gái mình về.

Kết quả là gây ra những mâu thuẫn giữa hai gia đình, hai dòng họ, gây mất trật tự thôn, bản. Vài năm trước, tại xã Hồng Ngài, đã có những cặp vợ chồng "trẻ con" thường hay cãi nhau vì chuyện... con trẻ. Bố mẹ chồng thì lại hay bênh con đẻ của mình nên cô gái uất ức quá tìm lá ngón... tự tử. --PageBreak--

Mới đây, Công an tỉnh Sơn La đã ra quyết định khởi tố vụ án "cố ý giết người" từng gây xôn xao trong dư luận. Bị can là Cù Thị Ón (29 tuổi), người dân tộc Mông, trú tại bản Nà Si, xã Mường Bú, huyện Mường La. Ón đã làm mẹ từ năm 16 tuổi. Do cuộc sống khó khăn, nên Ón lúc nào cũng mong muốn có đủ cơm ăn, áo mặc. Nhưng kém hiểu biết và mê tín dị đoan, nên Ón đã rắp tâm giết hại con gái mình. Rất may, cháu bé vẫn còn sống.

Tại Cơ quan Công an, Ón khai rằng, Ón nằm  mơ thấy có người nói phải giết con gái thứ hai là Quàng Thị Kim (9 tuổi) thì cuộc sống mới hết khổ. Do vậy, vào ngày 6/4/2006, nhân lúc chồng và các con đi vắng, chỉ có Ón và cháu Kim ở nhà, Ón đã lấy nilon trùm lên đầu rồi dùng dao phát nương chém vào gáy con. Sau khi thấy con bất tỉnh, Ón quấn con trong mảnh chiếu cũ rồi vứt ở khe suối cạn gần nhà. Sau đó, cháu Kim tỉnh lại và về nhà tố cáo mẹ.

Vào cuối năm 2007, hai cô gái Mông là Vàng Thị Dia (19 tuổi) và Vàng Thị Nỷ (18 tuổi) ở xã Chiềng Chăn, huyện Mai Sơn đều trong cảnh "lấy chồng ở tuổi thập tam" đã bị bọn xấu rủ rê lừa bán sang Trung Quốc. Vì lấy chồng sớm, cuộc sống vất vả, nên khi nghe hai đối tượng là Mã Seo Chinh và Hẳng Seo Hồ lừa gạt, hứa sẽ tìm cho công việc kiếm được nhiều tiền nên hai cô gái đã đồng ý đi theo chúng. Bọn chúng mới bán được Vàng Thị Dia sang Trung Quốc với giá 4 triệu đồng thì bị Công an tỉnh Sơn La bắt giữ. Còn Vàng Thị Nỷ vì đang nuôi con nhỏ 3 tháng tuổi, hẹn đến khi cháu bé tròn 6 tháng mới sang nên rất may vẫn chưa bị bán.

Còn theo thống kê của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, trong hai năm trở lại đây, số bị cáo bị đưa ra xét xử từng là nạn nhân của hủ tục tảo hôn rồi phạm phải các tội đặc biệt nghiêm trọng vẫn chưa có chiều hướng giảm.

Tục kéo vợ.

Điển hình như vụ Giồng Như Tồng (33 tuổi), ở xã Cò Mạ, huyện Thuận Châu đã buôn bán 27 kg thuốc phiện. Tồng lấy vợ năm 15 tuổi, một năm sau thì có con. Còn bố của Tồng (49 tuổi), tức là 17 tuổi đã làm cha, 33 tuổi đã làm ông nội. Lúc bị bắt, Tồng đã có 4 đứa con. Tồng khai nhận, đã có thâm niên hơn 10 năm buôn thuốc phiện. Vì buôn ma túy với số lượng lớn, nên đầu năm 2006, Tồng đã bị thi hành án tử hình.

Còn bị cáo Sồng A Lâu (21 tuổi) quê xã Lóng Luông, huyện Mộc Châu cũng phạm vào tội mua bán, vận chuyển trái phép chất mua túy với số lượng lớn nhưng khi bị bắt (tháng 7/2003), A Lâu mới 16 tuổi nên đã thoát khỏi án tử hình.

Tại tòa, Sồng A Lâu khai nhận, tháng 7/2003, Lâu được bố là Sồng A Thào (41 tuổi) giao cho 8 bánh hêrôin và 1.770 viên hồng phiến để đưa cho khách. Trên đường vận chuyển, Lâu đã bị bắt. Lúc vụ án được đưa ra xét xử (tháng 2/2004), vợ Lâu là Tráng Thị Xó (21 tuổi) mang theo con nhỏ mới 2 tháng tuổi đến Tòa để gặp bố. Vì ở lứa tuổi vị thành niên nên Lâu chỉ phải chịu mức án 12 năm tù giam...

Cần phải làm gì để xóa đi một hủ tục?

Anh Giàng A Tủa cho biết, trong khi hủ tục tảo hôn đã ăn sâu, bén rễ vào cuộc sống của đồng bào dân tộc Mông chưa thể xóa bỏ trong ngày một, ngày hai thì tại một số xã vùng cao của tỉnh Sơn La, trong đó có Hồng Ngài đã có "sáng kiến" áp dụng hình  thức chế tài là phạt tiền đối với các cặp vợ chồng tảo hôn.

Từ năm 2005, tại xã Chiềng Sạ, huyện Bắc Yên, ngoài phạt tiền, lãnh đạo huyện còn bãi miễn chức đại biểu HĐND xã đối với một vị cán bộ vì có con gái tảo hôn. Riêng tại xã Hồng Ngài, mức phạt được đề ra như sau: Nếu gia đình nào vi phạm (cho con lấy vợ, chồng sớm) thì phải nộp 100.000đ, gia đình cán bộ thì phải nộp 200.000đ.

Thông thường, khi các cặp vợ chồng lên UBND xã làm giấy đăng ký kết hôn, sẽ phải nộp luôn tiền phạt. Nếu gia đình nào chây ỳ, không chịu nộp, cán bộ xã sẽ đến tận nhà. Anh Tủa cho biết, vào vụ cưới hỏi đầu năm, xã Hồng Ngài đã thu phạt được 10 trường hợp. Riêng trường hợp của chú rể Giàng A Ký ở bản Hồng Ngài vì hoàn cảnh gia đình khó khăn,  nên được khất nợ. Nhưng đến vụ thu hoạch ngô vừa rồi (tháng 6/2006), gia đình A Ký đã tự nguyện "trả nợ". Còn trường hợp của anh  cán bộ Giàng A Tù, Chủ tịch MTTQ xã cũng để con gái tảo hôn từ năm 13 tuổi nên đã bị truy nộp 200.000đ.

Cũng xuất phát từ hủ tục tảo hôn, nên theo số liệu của Sở Tư pháp Sơn La, đã có 80% các cặp vợ chồng  đồng bào miền núi không đăng ký kết hôn (ĐKKH)  và vì vậy số con mà họ sinh ra cũng không đăng ký khai sinh (ĐKKS).

Đại diện  Sở Tư pháp Sơn La cho biết, đồng bào dân tộc coi chuyện cưới hỏi, sinh con đẻ cái là chuyện tự nhiên nên họ không biết rằng nếu không ĐKKH hay ĐKKS là vi phạm pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền lợi của phụ nữ và trẻ em, đặc biệt là để giải quyết các tranh chấp xảy ra, theo chỉ đạo của Bộ Tư pháp về việc đăng ký kết hôn cho các trường hợp nam nữ sống với nhau như vợ chồng và đăng ký khai sinh quá hạn cho trẻ, tỉnh Sơn La đã có những đợt rà soát về các trường hợp trên rồi về từng bản để hướng dẫn bà con thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình.

Kết quả cho thấy, toàn tỉnh Sơn La có 47.665 trường  hợp các cặp vợ chồng sống với nhau mà không ĐKKH (chủ yếu là do tảo hôn) và 101.036 trường hợp trẻ chưa được ĐKKS. Tính đến 6 tháng đầu năm 2008, đã có 41.488 trường hợp đến ĐKKH (chiếm 95,2%) và 93.836 trẻ đã được cấp ĐKKS (chiếm 92,87%).

Lãnh đạo Sở Tư pháp Sơn La cũng có đề xuất rằng, vì đời sống bà con dân tộc còn nghèo, hiểu   biết pháp luật còn hạn chế nên Nhà nước nên có chính sách hỗ trợ để bà con được miễn các khoản phí ĐKKH và ĐKKS trong thời gian tới.

Theo Tỉnh hội Phụ nữ Sơn La, để  chị em phụ nữ dân tộc hiểu biết pháp luật, có kiến thức về đời sống xã hội  và biết cách bảo vệ bản thân mình từ đó xóa bỏ các hủ tục xấu không có cách gì hiệu quả bằng xây dựng những mạng lưới tuyên truyền viên "miệng" đến khắp các thôn bản.

Tuy nhiên, khó khăn nhất của Tỉnh hội Phụ nữ Sơn La hiện nay là số cán bộ Hội còn mù chữ quá nhiều. Trong nhiệm kỳ trước có tới 207 chị là cán bộ cơ sở mù chữ. Do vậy, trong thời gian tới, cấp tỉnh và cấp Trung ương nên có nhiều chính sách hỗ trợ đào tạo tại chỗ cho chị em phụ nữ người dân tộc.

Nếu có trình độ, có hiểu biết, chị em phụ nữ dân tộc sẽ biết bảo ban nhau điều hay, lẽ phải để tự cứu lấy bản thân mình và gia đình

Mai Tâm
.
.