Đá Bia gió núi mây ngàn

Thứ Sáu, 14/03/2025, 11:58

Trong hành trình xuyên Việt trên quốc lộ 1A qua địa phận tiếp giáp hai tỉnh Phú Yên - Khánh Hòa, nếu không đi qua hầm đường bộ, du khách có thể trải nghiệm cung đường đèo Cả uốn lượn ngoạn mục trên lưng dãy núi vươn mình ra vịnh biển Vũng Rô xanh màu ngọc bích. Dừng chân đỉnh đèo, ngước nhìn lên núi sẽ bắt gặp Đá Bia gió núi mây ngàn - một trong ba di tích lịch sử, danh thắng quốc gia ở phía Nam Phú Yên.

1. Đá Bia còn gọi là Thạch Bi Sơn nằm ở độ cao 706m. Khối đá khổng lồ ấy cao 76m, sừng sững uy nghiêm vươn thẳng bầu trời, được ví như biểu tượng trong đời sống văn hóa ở Phú Yên từ bao đời nay gắn với nhiều huyền tích một thời cha ông mở nước.

Theo nhà nghiên cứu Ka Sô Liễng và một số chuyện kể dân gian, có nhiều truyền thuyết về Đá Bia. Người Chăm gọi Đá Bia là Hduơn Ktol, nghĩa là núi Cùi Bắp, vì hình dáng giống cùi bắp dựng đứng. Một ngày nọ, Chi Rất - thủ lĩnh bộ tộc Chăm ra lệnh cho các chiến binh leo lên ngọn núi cao ở tận Chư Sê thử nghiệm cung tên mới làm ra. Hàng loạt mũi tên bật khỏi dây cung xuyên thủng núi Cùi Bắp, tạo thành đường hầm ra tới biển.

Theo người Ê Đê thời xa xưa, vị vua Porome có ba người vợ dân tộc Chăm, Kinh, Ê Đê. Khi người vợ thứ ba là bà Kut H’Bhil qua đời, vị vua ra lệnh đắp ngôi mộ cao to sau này được gọi là núi Đá Bia… Trong một chuyến khảo cổ học tại Phú Yên năm 2002, giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng, thời kỳ Chăm Pa, Đá Bia được coi là núi thiêng, hiện thân của thần Siva trong tôn giáo của người Chăm.

Đá Bia gió núi mây ngàn -0
Điểm khởi đầu đường lên đỉnh Đá Bia bên đường QL1A ở đèo Cả. Ảnh: Hữu Toàn.

Tương truyền hơn 550 năm về trước, trong hành trình mở nước về cõi bờ Nam, vị minh quân Lê Thánh Tông (1442-1497) huy động 26 vạn quân đánh chiếm thành Đồ Bàn - kinh đô Chiêm thành lúc bấy giờ, sau đó thúc quân vượt đèo Cù Mông thẳng tiến đến đèo Cả. Tại đây, nhà vua sai lính khắc chữ trên Đá Bia vào mùa xuân Tân Mão - 1471, đánh dấu mốc giới quốc gia Đại Việt và Chiêm Thành.

Theo “Đại Nam thực lục” nội dung văn bia ghi rằng: “Chiêm thành quá thử, binh bại quốc vong/An Nam quá thử, tướng tru, binh chiết”. Nghĩa là: “Chiêm thành vượt qua đây, quân thua, nước mất/An Nam vượt qua đây, tướng chết, quân tan”. Cũng có thuyết ghi: “Dĩ Nam Chiêm thành/Dĩ Bắc dân triều mệnh Việt Nam”. Nghĩa là: “Từ Đá Bia vào phía Nam của Chiêm thành, trở về phía Bắc dân phụng mạng lệnh Việt Nam”. Rồi có tài liệu nói rằng văn bia chỉ khắc hai chữ “Hồng Đức” - niên hiệu vua Lê Thánh Tông.

Có nhiều tranh luận sự kiện lịch sử nêu trên lẫn văn bia, nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, khảo cổ, dân tộc học và bia ký học cũng đã khảo cứu. Theo thạc sĩ Ngô Minh Sang, nhiều bộ chính sử đề cập đến sự kiện này, như “Đại Việt sử ký toàn thư” của Ngô Sĩ Liên, “Khâm định Việt sử thông giám cương mục”, “Đại Nam nhất thống chí” của Quốc sử quán triều Nguyễn, “Phủ biên tạp lục” của Lê Quý Đôn cùng nhiều bộ sử khác như “Việt Nam sử lược” của Trần Trọng Kim, “Việt sử xứ Đàng trong” của Phan Khoang và một số khảo cứu khác, như “Non nước Phú Yên” của Nguyễn Đình Tư, “Tìm hiểu địa danh qua tục ngữ ca dao Phú Yên” của Nguyễn Đình Chúc...

Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các nhà hàng hải Pháp gọi Đá Bia là “Ngón tay Chúa” (Le Doigt de Dieu), được mô tả trong sách Lindocine Francise của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer, vì từ biển khơi tầm 20 dặm nhìn thấy Đá Bia như ngón tay chỉ lên trời. Đó là dấu mốc định hướng tàu thuyền vận hành trên biển vào bến Vũng Rô, Đại Lãnh dưới chân đèo Cả. Đến năm 1890, Varella - một sĩ quan hải quân Pháp đề xuất xây dựng hải đăng Mũi Điện ở phía đông núi Đá Bia, nằm trong quần thể Bãi Môn - Mũi Điện đã được Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng di tích danh thắng quốc gia năm 2008 và cũng là một trong hai nơi trên đất liền Việt Nam đón ánh bình mình sớm nhất mỗi ngày.

Đá Bia gió núi mây ngàn -0
Vận động viên leo núi chinh phục Đá Bia. Ảnh: Lê Minh.

2. Không chỉ có trong truyện kể dân gian với nhiều huyền tích và trong sử sách, mà hình tượng Đá Bia đã đi vào văn học, nghệ thuật.

Khi qua đèo Cả giữa thế kỷ XIX, cụ Phan Thanh Giản (1796-1867), quan đại thần triều Nguyễn nhìn lên Đá Bia tưởng nhớ vua Lê Thánh Tông, nên viết bài thơ “Bi Sơn cảm tác” bằng chữ Hán, được dịch nghĩa: “Mảnh đá đầu non dựng/ Tầng cao ngất một phương/ Chia bờ nêu cột Hán Đuổi giặc trú xe Đường/ Chữ triện mây lu nét/ Công thần sử dọi gương/ Chạm bia người đã vắng/ Lữ khách chạnh lòng thương”.

Trong“Đại Nam quốc sử diễn ca” của Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái viết: “Kỷ công có núi Đá Bia/Thi văn các tập Thần Khuê còn truyền”.

Chí sĩ yêu nước Nguyễn Trường Tộ trong “Bi Sơn ngẫu tác” có những câu thơ được dịch nghĩa: “Ngàn năm còn đó như cột định vị truyền đời/ Đơn độc trên cao như chén rượu bày trên đỉnh núi/ Đứng một mình mạnh mẽ giữ yên sóng bể/ Tưởng chừng như đã từng luyện đá vá trời”.

Còn thi sĩ Hữu Loan trong đoàn quân Nam tiến mùa Đông năm 1946, đã để lại bài thơ “Đèo Cả” nổi tiếng trong đời thơ của ông, được chọn là một trong 100 bài thơ hay nhất thế kỷ XX, trong đó có những câu thơ nhắc đến Đá Bia: “Đèo Cả!/ Đèo Cả!/ Núi cao ngút!/ Mây trời Ai Lao/ Sầu đại dương!/ Dặm về heo hút/ Đá Bia mù sương/ Bên quán “Hồng Quân”/ Người ngựa mỏi/ Nhìn dốc ngồi than/ thương ai lên đường…”.

Trong bài thơ “Tôi yêu quê mẹ khu Đông”, nhà thơ Lương Nguyên viết: “Núi khu Đông cao vút/ Ngọn Đá Bia/ Không gian niềm tin… Ở Thạch Bi Sơn - Đèo Cả/ Thuở đi tìm hoa thơm cỏ lạ/ Lương Văn Chánh mang gươm/ Tay viết thơ Đường… Dòng Bàn Thạch chảy vào văn học/ Ngọn Đá Bia cao vút niềm tin”.

Còn Hoàng Nguyên Chương trong bài “Đá Bia” với chín khổ thơ, mỗi khổ bốn câu, trong câu thứ nhất mỗi khổ đều khởi đầu bằng bốn chữ “Có một Đá Bia…”. Khi mềm mại, lúc hào hùng: “Có một Đá Bia đi vào lịch sử/ Vó ngựa kiêu hùng dậy sấm đầu non/ Cứ ngỡ thanh gươm rạch trời mở đất/ Đã khắc vào hồn hóa Thạch Bi Sơn”. Với bài thơ “Tuy Hòa”, thạc sĩ, nhà báo Phan Thanh Bình viết: “Vẫn là em Đá Bia trầm mặc/ Ngàn năm vô vọng ngóng phương chồng/ Vẫn là em Chóp Chài đội mũ/ Nhạt nhòa sương phủ những chiều giông”.

Đá Bia gió núi mây ngàn -0
Di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Vũng Rô nằm dưới chân núi Đá Bia - “Đường Hồ Chí Minh trên biển TP Hải Phòng - Phú Yên - Bà Rịa Vũng Tàu - Cà Mau”. Ảnh: Hữu Toàn.

Trong bài thơ “Thạch Bi Sơn”, nhà thơ Huỳnh Văn Quốc, Phó chủ tịch Thường trực Hội Văn học Nghệ thuật, Tổng biên tập Tạp chí Văn nghệ Phú Yên cảm nhận Đá Bia sừng sững giữa gió núi, mây ngàn: “Lồng lộng trời xanh/ Thăm thẳm biển/ Đá vươn lên thẳng dáng kiêu hùng/ Khí phách cha ông/ Tạc vào năm tháng”.

Khác với các nhà hàng hải Pháp xưa kia ví Đá Bia như “Ngón tay Chúa”, nhà thơ Lê Anh cảm nhận: “Như ngọn giáo người xưa mở cõi/ Vạch ngang trời sắc nhọn những câu thơ /Biển xanh thẳm trùng trùng sóng vỗ/ Hoa biển ngát lòng/ Sóng trắng như mơ” trong bài “Thơ viết bên ngọn Đá Bia”.

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư, 105 năm tuổi - tác giả của hơn 60 tác phẩm, trong đó có “Non nước Phú Yên”-1964, cũng từng khắc họa Đá Bia: “Sừng sững vươn cao đá một hòn/ Trải bao mưa nắng vẫn không sờn/ Quanh co sườn núi đường lên xuống/ Trắng xóa chân non sóng dập dờn”. Tác giả Lê Văn Tâm ngược dòng lịch sử, gợi lại tích xưa bằng những dòng thơ: “Bia đá bên trời cao ngút mây/ Chia biên ngăn giặc chiến công này/ Vua Lê ngự bút phân bờ cõi/ Đuổi giặc xây thành vạn cổ đây”…

Hình tượng Đá Bia còn hiện hữu trong ca dao, tục ngữ ở Phú Yên. Người xưa trên vùng đất này từng dự báo thời tiết khi nhìn thấy: “Chóp Chài đội mũ/ Mây phủ Đá Bia/ Cóc nhái kêu lia/ Trời mưa như đổ”. Rồi hình ảnh người chiến sĩ vệ quốc được ngợi ca: “Chiều chiều mây phủ Đá Bia/ Thương người vệ quốc canh khuya dặm trường”.

Hậu thế bày tỏ lòng tri ân các bậc tiền nhân bằng những câu: “Sông Bàn Thạch quanh co uốn khúc/ Núi Đá Bia cao vút tầng mây/ Non kia núi nọ còn đây/ Mà người non nước giờ đây phương nào?”. Với những đôi nam nữ, xưa kia còn thử tài nhau bằng những câu đố dân dã có vần điệu: “Anh hỏi em cột phướn ai trồng/ Đá Bia ai dựng, ghềnh Rồng ai xây?”…

Đá Bia gió núi mây ngàn -0
Những cung đường Đèo Cả uốn lượn trên lưng núi bên dưới Đá Bia. Ảnh: Lê Minh.

Trước ống kính nhiều nhiếp ảnh gia, dưới nét cọ những họa sĩ tài hoa và bàn tay nghệ thuật các nhà điêu khắc cùng những ý tưởng độc đáo của nhà ngôn ngữ học, hình tượng Đá Bia thêm sáng đẹp trong những tác phẩm ảnh nghệ thuật, hội họa, điêu khắc, câu đối… Từ năm 1836, vua Minh Mạng đã cho thể hiện dãy núi Đại Lãnh, trong đó có hình tượng Đá Bia vào Tuyên Đỉnh - một trong Cửu Đỉnh bằng đồng đặt tại Thế Miếu trong Đại nội kinh thành Huế. Tại Phú Yên, trong Di tích lịch sử quốc gia Mộ và Đền thờ danh nhân Lương Văn Chánh - vị thành hoàng khẩn hoang mở đất Phú Yên có câu đối: “Chứng tích năm trăm năm, bia đá ghi sâu tình đất Phú/ Giang sơn muôn vạn thuở, sử vàng chói sáng cảnh dân Yên”. Trong miếu thờ vua Lê Thánh Tông cũng có câu, tạm dịch: “Non sông mở cõi năm nào, phụ lão truyền nhau công Hồng Đức/ Lễ kính hương thơm đất ấy, danh thiêng xứng mãi ngọn Bi Sơn”…

3. Trước kia, muốn lên đỉnh Đá Bia không chỉ leo núi, luồn rừng nhiều giờ, lách né từng bụi cây gai góc, hoang dại dưới những tán rừng với vẻ đẹp hoang sơ. Để khai thác tiềm năng du lịch vùng đất linh thiêng, một con đường 2.071 bậc thang lên đỉnh Đá Bia đã được xây dựng, thu hút nhiều nhóm người du khảo, leo núi trải nghiệm để thưởng ngoạn cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ vùng đất cực Nam Phú Yên. Từ trên Đá Bia nhìn xuống, bức tranh sơn thủy hữu tình mở rộng trong tầm mắt với thung lũng xanh màu cây lúa non tơ hay rực rỡ mùa vàng trĩu hạt nối liền những cánh đồng tôm và biển cả mênh mông.

Lên đỉnh Đá Bia, du khách không tìm thấy dấu tích văn bia của vua Lê năm xưa còn nhiều tranh luận, nhưng sẽ cảm nhận hồn thiêng sông núi, tưởng nhớ cội nguồn khi lắng nghe huyền tích một thời cha ông mở nước về cõi bờ Nam. Trong gió núi mây ngàn, dường như có tiếng vó ngựa của những tướng quân, binh sĩ do vị minh quân Lê Thánh Tôn tài ba chỉ huy tiến đến đèo Cả với hào khí dũng mãnh tạo nên huyền tích Đá Bia…

Phan Thế Hữu Toàn
.
.