Khúc tráng ca Vũng Rô
60 năm trôi qua, kể từ khi tiếp đón chuyến tàu không số đầu tiên vào bến Vũng Rô ở phía Nam Phú Yên (28/11/1964 - 28/11/2024), tinh thần mưu trí, dũng cảm và ý chí cách mạng kiên cường của cán bộ, chiến sĩ trên tàu - dưới bến luôn là khúc tráng ca hào hùng, sống động mãi trong tâm thức của các thế hệ. Nơi ấy bây giờ không chỉ là di tích lịch sử quốc gia đặc biệt, mà còn là một địa chỉ đỏ về nguồn để giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ hôm nay và mai sau.
1. Nghề báo tạo cơ duyên cho tôi nhiều lần tiếp xúc Trung tá Hồ Đắc Thạnh, Anh hùng Lực lượng vũ trang - vị thuyền phó, thuyền trưởng 12 chuyến tàu không số vượt đường Hồ Chí Minh trên biển chi viện vũ khí cho chiến trường miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ, trong đó có 3 chuyến tàu không số mang mật số 41 vào bến Vũng Rô ở phía Nam Phú Yên. Ngoài ông, tôi còn gặp nhiều cựu binh, cán bộ, dân công năm xưa, lắng nghe những câu chuyện đẫm chất bi hùng.
91 tuổi đời, 70 năm tuổi đảng và hơn 30 năm binh nghiệp, nhưng Anh hùng Hồ Đắc Thạnh vẫn khỏe mạnh, sôi nổi kể chuyện những chuyến tàu không số với từng tình tiết, không gian, thời gian rõ nét.
Bằng giọng trầm ấm, ông chia sẻ: “Gọi là tàu không số, nhưng thật ra mỗi tàu đều có số hiệu. Do vùng biển phía Nam thời ấy có điệp viên cài cắm trên tàu thương mại rồi tàu chiến, hải thuyền của địch tuần tra ráo riết. Trên bờ, địch lắp đặt radar nhiều nơi để “soi chiếu” mặt biển ngày đêm, trên không máy bay đảo lượn, kiểm soát gắt gao, nên phải giấu số hiệu và gọi chung là tàu không số”.
Để đánh lạc hướng địch, vượt qua nhiều thử thách hiểm nguy, mỗi tàu đều mang theo nhiều số hiệu giả và quốc kỳ một số nước nhằm hóa trang, đối phó địch. Có những tàu vươn ra hải phận quốc tế, đôi lúc xuống tới vùng biển Malaysia mới ngược lên Cà Mau để tránh tầm kiểm soát của địch. Cũng có lần chạm trán máy bay địch đến gần, thủy thủ tàu không số mưu trí treo lưới, cá khô trên khẩu pháo đã ngụy trang thành tàu đánh cá, rồi vẫy cờ “ba que” chào... địch. Trên mỗi tàu, ngoài thuyền trưởng còn có chính trị viên, thuyền phó, kỹ thuật hàng hải, cơ điện, hỏa lực, cơ yếu, y tá và đặc biệt là... 1 tấn thuốc nổ sẵn sàng kích hoạt, phá hủy tàu khi đối mặt với địch trong tình huống hiểm nguy.
Sau 2 chuyến đi đầu tiên với tư cách thuyền phó tàu có mật số 54, 56 rời Hải Phòng chở vũ khí vào Cà Mau, Bến Tre ngày 12/9 và 6/12/1963, ông Hồ Đắc Thạnh làm thuyền trưởng tàu 41, chỉ huy 10 chuyến vận chuyển hàng trăm tấn vũ khí vào Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Phú Yên, Quảng Ngãi.
“Tôi là dân Phú Yên nên mỗi lần đi qua vùng biển quê nhà cứ rạo rực mong có một lần vào bến Vũng Rô, không ngờ ước mong đó trở thành sự thật. Giữa tháng 11/1964, Đại tá Nguyễn Bá Phát, Tư lệnh Quân chủng Hải quân giao nhiệm vụ cho tàu 41 vận chuyển vũ khí vào bến Vũng Rô. Lúc đó, tôi như người lạc giữa cõi mây với cảm giác lâng lâng vui sướng xen lẫn xúc động” - ông Thạnh nhớ lại.
2. Sau khi tiếp nhận 63 tấn vũ khí, thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh cùng đồng nghiệp nghiên cứu hải đồ, xác định thủy triều, hướng đi có thể tránh radar của địch... rồi cho tàu 41 rời Bãi Cháy đêm 16/11/1964. Diễn biến thời tiết xấu dần lên trong hải trình vào Nam, tàu 41 gặp nhiều tình huống bất ngờ, như khi qua khỏi vĩ tuyến 17 thì nhận bức điện: “Bộ Tư lệnh Vùng 1 duyên hải phái 2 tàu chiến hộ tống phái đoàn Mỹ thị sát radar Cù Lao Ré. Tàu 41 qua vùng biển Đà Nẵng phải chú ý. Tình hình bến vẫn êm”.
Ngày hôm sau, máy bay trinh sát rồi 2 tàu chiến của địch lần lượt xuất hiện trên vùng biển Đà Nẵng, nhưng thủy thủ tàu 41 kéo cờ “ba que” lên cao, rồi thản nhiên vẫy chào khiến địch nhầm tưởng là tàu cá. Đêm 28/11/1964, tàu 41 hướng mũi lái vào Vũng Rô, thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh xúc động rơi nước mắt khi ông Trần Suyền, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên trực tiếp đón tàu, chỉ đạo bốc dỡ vũ khí. Do biết nhau từ trước, hai người ôm nhau rất lâu khiến cho thủy thủ trên tàu và bộ đội, du kích, dân công dưới bến đều ngạc nhiên.
“Mặc dù bến Vũng Rô huy động thêm nhân lực nhưng không kịp bốc dỡ hết vũ khí trước 3h sáng để tàu rời bến. Tôi hội ý, thống nhất trong cấp ủy chi bộ rồi điện báo xin ý kiến Bộ Tư lệnh Hải quân cho tàu nằm lại Vũng Rô, đêm sau mới rời bến. Đây là phương án mạo hiểm vì bên cạnh lợi thế mực nước sâu và kín gió, có vòng cung dãy núi che chắn thì điểm yếu của vịnh Vũng Rô là chỉ có một cửa ra vào, không nơi cho tàu trú ẩn như các bến ở Nam bộ có rừng đước, rừng tràm. Trước tình thế đó, những tấm lưới pháo binh giăng ra cùng cành lá cây rừng phủ kín từ chân núi ra Bãi Chính, biến tàu thành “mỏm núi” chồm ra biển” - ông Thạnh kể.
Lần thứ hai, thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh chỉ huy tàu 41 chở 60 tấn vũ khí vào bến Vũng Rô đêm 25/12/1964. Trước chuyến đi, ông đề nghị Bộ Tư lệnh Hải quân hỗ trợ bến Vũng Rô 3 tấn gạo tám thơm, nhưng một số sĩ quan cho rằng Phú Yên không thiếu lương thực vì vựa lúa Tuy Hòa mênh mông, thẳng cánh cò bay. Khi nghe ông Thạnh cho biết địch phong tỏa đường bộ qua đèo Cả nhiều ngày đêm để cô lập Vũng Rô nên bộ đội, du kích, dân công ở bến phải ăn sung rừng... thì cấp trên mới phê duyệt xuất gạo đưa lên tàu 41.
Thêm một lần nữa thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh được phân công chỉ huy tàu 41 rời Hải Phòng đêm 22/1/1965 chở 60 tấn vũ khí vào bến Vũng Rô. Trong hải trình gần chục ngày đêm, gặp nhiều tàu tuần tra của địch, đến 11h50’ đêm 1/2/1965 tàu 41 vừa buông neo ở bến Vũng Rô thì từ đỉnh đèo Cả những loạt đạn pháo của địch dội sáng không trung. Cứ tưởng tàu đã bị lộ, nhưng khi an ninh bến Vũng Rô kiểm tra mới biết phía địch bắn đạn pháo để... chào đón Giao thừa năm Ất Tỵ. Ông Trần Suyền, Bí thư Tỉnh ủy Phú Yên cùng nhóm bộ đội, du kích, dân công vừa bước lên tàu 41 thì radio ở phòng báo vụ âm vang lời chúc Tết của Bác Hồ kính yêu đầy ấm áp, thân thương trên sóng phát thanh Đài Tiếng nói Việt Nam.
Sau những phút bồi hồi xúc động, mọi người chia sẻ niềm vui và thưởng thức bánh chưng, kẹo lạc, trà Thái Nguyên, bia Trúc Bạch... do tàu 41 mang theo từ miền Bắc. Gần 3 giờ sáng mùng 1 Tết Nguyên đán Ất Tỵ, khi toàn bộ vũ khí bốc dỡ xong, tàu chuẩn bị rời bến thì nữ dân công Nguyễn Thị Tảng trao cho thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh nắm đất gói trong khăn tay, rồi bày tỏ: “Xin gửi theo tàu nắm đất Vũng Rô, mảnh đất kiên cường bất khuất... một lòng theo Đảng và Bác Hồ. Có súng đạn của miền Bắc chi viện, mảnh đất này sẽ là điểm tựa của những chiến công”. Bây giờ, nắm đất đó còn lưu giữ ở Bảo tàng Hải quân Việt Nam, hình ảnh trao nhận nắm đất được một nhà điêu khắc tái hiện qua bức tượng đồng trong Nhà truyền thống Lữ đoàn Hải quân 125 ở phường Cát Lái, quận 2, TP Hồ Chí Minh.
3. Cùng thời điểm này, Đoàn 759 giao cho tàu 143 do thuyền trưởng Lê Văn Thêm chỉ huy vận chuyển hơn 63 tấn vũ khí vào bến Lộ Diêu, huyện Phù Mỹ, tỉnh Bình Định. Tàu rời Hải Phòng vài ngày thì bến Lộ Diêu có nguy cơ mất an toàn do chiến sự ở Đèo Nhông - Dương Liễu diễn ra ác liệt. Bộ Tư lệnh Hải quân chỉ đạo tàu 143 chuyển hướng vào bến Vũng Rô đêm 15/2/1965.
Dù đã nỗ lực bốc dỡ toàn bộ chuyến hàng ngoài kế hoạch trước 3h sáng 16/2/1965, nhưng sự cố tời kéo neo tàu 143 bị hỏng, nên phải sửa chữa đến 5h sáng mới xong. Ra biển lúc đó sẽ bị lộ nên tàu 143 neo lại Bãi Chùa, phương án giăng lưới, phủ lá rừng che chắn tàu tạo thành “mõm núi” được triển khai, nhưng trưa hôm đó, phi công Mỹ James S. Bowers lái trực thăng UH-1B chở lính địch bị thương từ Quy Nhơn vào Sài Gòn đã phát hiện “mõm núi” lạ thường, nên báo cho thiếu tá hải quân Mỹ Harvey P. Rodgers - cố vấn cao cấp của Bộ Tư lệnh Vùng II chiến thuật Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Lập tức thiếu tá Hồ Văn Kỳ Thoại - Tư lệnh Vùng II duyên hải Nam Trung bộ điều máy bay trinh sát chụp ảnh “mõm nũi”, phát hiện sự khác biệt so với những tấm không ảnh trước đó. Chiều cùng ngày, địch huy động 1 máy bay trinh sát, 2 trực thăng AD-6 bắn rocket, tên lửa vào “mõm núi”, lá ngụy trang bốc cháy, tàu 143 lộ diện. Từ Bãi Lau, ông Hồ Thanh Bình, Đại đội trưởng Đại đội K60 chỉ huy 2 khẩu đội pháo 12,7 ly nã đạn, đánh trả quyết liệt.
Trước tình huống này, phương án phá hủy tàu 143 là cấp thiết, nhưng do tàu chao nghiêng vì bị trúng đạn pháo, không thể kích hoạt chất nổ bên trong. Sáng 17/2/1965, địch tăng cường máy bay trên không, tàu chiến trên biển và 2 tiểu đoàn bộ binh hành quân từ đỉnh đèo Cả xuống Vũng Rô thực hiện mưu đồ bắt sống cán bộ, chiến sĩ tàu 143, nhưng vấp phải những cuộc đánh trả kiên cường, dũng cảm của bộ đội, du kích ở bến Vũng Rô cùng thủy thủ tàu 143. Và, với quyết tâm cao nhất, hơn nửa tấn thuốc nổ đã được trinh sát Đại đội K60 cùng dân quân bến Vũng Rô huy động trong đêm đã đánh chìm tàu 143, không để phía địch chiếm giữ. Trong những trận đánh ở bến Vũng Rô đã có 20 cán bộ, chiến sĩ hy sinh anh dũng.
Những ngày sau đó chiến sự nơi này diễn ra ác liệt, địch tăng cường đánh phá, phong tỏa nên bến Vũng Rô khép lại nhiệm vụ tiếp nhận vũ khí chi viện từ miền Bắc, nhưng sự kiện tàu không số gắn liền những chiến công huyền thoại và sự hy sinh anh dũng của cán bộ, chiến sĩ năm xưa ở bến Vũng Rô vẫn trường tồn với thời gian và sáng mãi một tượng đài bất diệt.
Với những kỳ tích lập nên sau những hải trình vận chuyển vũ khí chi viện chiến trường miền Nam và đã kích hoạt chất nổ để đánh chìm tàu 41 rạng sáng 28/11/1966 tại bến Phổ An ở phía Nam Quảng Ngãi, không để địch chiếm giữ, ngày 11/1/1973, tập thể tàu 41 được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu đơn vị Anh hùng Lực lượng vũ trang. Danh hiệu này cũng được Chủ tịch nước phong tặng cho Trung tá, thuyền trưởng Hồ Đắc Thạnh ngày 10/10/2011. Nhiều cán bộ, chiến sĩ ở bến Vũng Rô năm xưa như Trung tá Hồ Thanh Bình, Thiếu tá Ngô Văn Định, Thượng úy Tống Trọng Điểm, Trung úy Ngô Minh Thơ... cũng được tặng thưởng nhiều huân, huy chương.