Người “mắc nợ” rừng xanh
Ông đã dành trọn những chương cuối cuộc đời mình cho tình yêu vĩ đại và thủy chung với rừng. Khi đã ở tuổi xưa nay hiếm, ông vẫn khát vọng đi về hướng núi, nơi có hàng trăm con người ngày đêm lao động sản xuất và bảo tồn văn hóa bản địa, nơi có âm thanh của cồng chiêng trong nhịp chân khua và ngọn lửa bập bùng xua đi màn đêm tăm tối... Ông muốn được chết dưới tán rừng, để thân xác hòa vào thiên nhiên.
Lập làng Đarahoa
Một ngày xuân Đà Lạt gió rét và mưa lạnh, “ông già núi rừng” Nguyễn Đức Phúc hẹn chúng tôi ghé thăm ngôi nhà trên xứ ngàn hoa của mình. Trong không gian rộng rãi và ngăn nắp, chủ nhân bài trí các kỷ vật chiến trường như, mũ tai bèo, mũ cối, điện thoại, máy thông tin, hộp đạn 12 ly, bao súng, các loại túi cóc, ống nhòm, cung nỏ... cùng những bức ảnh ố vàng màu thời gian, chứng nhân lịch sử trong cuộc đời binh nghiệp của một Trung tá, Chính trị viên Tiểu đoàn đặc công 200C anh hùng (thuộc Khu VI) thời kháng chiến chống Mỹ.
Dù đã bước sang tuổi 83, trông ông vẫn toát lên vẻ rắn rỏi, tinh anh cùng sự dí dỏm, hài hước với lối kể chuyện theo phong cách đại ngàn làm cho người đối diện thích thú đến tò mò.

Nguyễn Đức Phúc sinh ra và lớn lên ở Bình Định, đi làm cách mạng ở vùng đất Quảng Nam rồi ra miền Bắc học tập, sau đó trở lại miền Nam tiếp tục chiến đấu. Đi qua cuộc chiến tranh gian khổ và khốc liệt, đất nước hòa bình, ông ở lại tiếp quản TP Đà Lạt, kinh qua nhiều trọng trách quan trọng của chính quyền, là Trưởng Ban Tuyên huấn Tỉnh đội Lâm Đồng, rồi cán bộ nội chính của Tỉnh ủy. Từng vào sinh ra tử nhiều chiến trường, bầm giập, ngụp lặn giữa những dòng chảy vô thường nhưng cuối cùng, ông nhận ra mình có một tình yêu sâu thẳm với những cánh rừng, nơi đã che chở, bao bọc cho ông vượt qua ranh giới mong manh của sinh tử trong những trận đánh ác liệt với kẻ địch. Ông ngày đêm thổn thức khi thấy rừng Tây Nguyên bị tàn phá. Người ta chặt cây rừng để lấy đất làm nhà, phá rừng làm rẫy khiến cho rừng bị chảy máu và nghèo kiệt. Ông đã khóc khi thấy một cây rừng hàng chục năm tuổi bị đốn hạ. Ông thấy một số đồng bào ít người ngày càng đói khổ, ông nghĩ mình có thể làm được điều gì đó cho rừng và cho bà con ở các bản làng hẻo lánh.
Thế rồi, người cán bộ Nguyễn Đức Phúc đã buông bỏ mọi chức tước và bổng lộc, quyết định nghỉ hưu sớm. Năm 1992, ông được tỉnh Lâm Đồng giao hơn 300 hecta đất rừng (thời gian 40 năm) ở khu núi Voi, xã Hiệp An, huyện Đức Trọng. Kể từ đó, khu rừng đã gắn bó như máu thịt với ông. Ông dành tất cả tâm huyết và sức lực để bảo vệ và chăm sóc cho rừng.
Trồng rừng được một thời gian thì người dân vào phá, ông ngộ ra rằng, không ai giữ rừng hiệu quả bằng chính người dân ở vùng rừng đó. Thế là, ông đi gom đồng bào dân tộc K’ho sống phân tán khắp nơi về, trong đó có người từng đi theo Fulro cũng được ông gọi về định canh, định cư, yên ổn làm ăn mà không phải trốn chui trốn lủi trong rừng. Ban đầu không ai tin ông có thể xây dựng được làng, vì vốn dĩ bà con đồng bào thích du canh, du cư, thích nay cánh rừng này mai ngọn núi khác. Ông nói chuyện trồng rừng, bà con lại cười, vì xưa này họ chỉ sống trong rừng, ăn của rừng không hết, cần gì phải trồng rừng.
Nhưng rồi, mưa dầm thấm lâu, họ dần thấy ông nói đúng cái lẽ tự nhiên, họ bị thuyết phục bởi tấm chân tình của “ông già núi rừng” Nguyễn Đức Phúc. Sau đó ông xin tỉnh lập làng dân tộc Đarahoa, tiếng K’ho có nghĩa là “suối trên ngàn”, liên kết chính quyền địa phương lập thôn trưởng, già làng... Làng Đarahoa ra đời, ban đầu chỉ có 6 gia đình, một thời gian sau đã tăng lên hàng chục ngôi nhà, hàng trăm nhân khẩu, chịu trách nhiệm quản lý hàng trăm hecta rừng được giao.

Bà con thiếu giống cây trồng, vật nuôi, thiếu tiền làm nhà, ông Phúc đều giúp sức. Bà con không có nước sạch để uống, không có nước để tưới cà phê, ông mua và làm một đường ống nhựa dài 7 cây số cùng bà con dẫn nước từ trên núi xuống. Ông cho thành lập một tiểu đội dân quân của buôn làng vừa bảo vệ rừng vừa bảo vệ an ninh, trật tự. Bà con tự nguyện bảo vệ ngay trên chính diện tích mà mình nhận khoán, cùng buôn làng tuần tra theo dõi không cho người lạ vào chặt phá. Ông mời cán bộ kiểm lâm, công an, cán bộ kỹ thuật nông nghiệp vào truyền đạt kinh nghiệm giữ rừng và hướng dẫn cách trồng rừng và chăm sóc rừng.
“Đêm về tôi đọc sách. Ngày tôi vào thư viện các trường đại học, trung tâm nghiên cứu tìm tòi học hỏi những điều mình chưa biết để làm tốt việc trồng cây, chăn nuôi trên mảnh đất làng mình. Nhờ vậy mà suốt hàng chục năm, rừng của làng Đarahoa chưa một lần bị thiêu cháy”, ông Phúc kể.
Ông sống với bà con, vận động bà con giữ rừng, giữ văn hóa bản địa, lấy giá trị truyền thống bền vững để phục vụ du lịch. Ông đến với đồng bào bằng trái tim, bằng tình yêu, muốn giúp cho đời sống của đồng bào đỡ cơ cực, lẽ đương nhiên ông được họ đón tiếp như người nhà. K’Thủy (20 tuổi) cô gái người dân tộc K’ho chia sẻ rằng, các con nhỏ, con lớn ở làng đều gọi ông là “ba Phúc”.
Mỗi khi thấy ba Phúc về làng, lũ trẻ sà vào lòng của ông để nhận quà, được ông xoa đầu, nựng má, ân cần thăm hỏi như những đứa con ruột thịt của mình. Ông Ha Hai, người từng theo Fulro, được ông Phúc kéo về làng Đarahoa làm lại cuộc đời vẫn nhớ như in ngày đầu gặp ba Phúc: “Những ngày tháng lầm đường lạc lối tôi vô cùng khổ cực. Còn đồng bào cứ du canh du cư phát rừng làm rẫy. Nhờ có chính quyền, có ba Phúc giúp làm nhà, hướng dẫn trồng trọt, chăn nuôi, ổn định nơi ăn chốn ở. Đồng bào thương ba Phúc rất nhiều”.
Khi kể cho chúng tôi nghe ký ức về rừng, ông Phúc trầm ngâm đọc câu thơ: “Rừng có cửa nhưng không có khóa/ Khóa cửa rừng bằng trái tim ta”, ngụ ý rằng, biện pháp cấm phá rừng là một chuyện, có giữ được rừng là chuyện khác. Ông Phúc suy nghĩ: “Đồng bào dân tộc ít người từ bao đời nay vẫn nghĩ rừng cho gì thì hưởng nấy nên phá rừng. Tôi thì chứng minh cho họ thấy, giữ được rừng thì rừng mới nuôi sống họ và là nơi để con người nương tựa. Những khu rừng đang tái sinh từng ngày, nhưng rừng cũng như biển vậy. Chúng đỏng đảnh và khó chiều vô cùng. Nếu không chung thủy với rừng, không thực sự là người của rừng thì rừng mãi mãi không bao giờ thuộc về mình”.
Dù mùa hè nắng cháy hay mùa động lạnh giá, ông vẫn giữ cho mình ngọn lửa nhiệt huyết, kiên trì giữ rừng, gắn bó với rừng và rừng cũng che chở cho ông. Có những đêm ba mươi Tết, ông vác túi ngủ vào rừng. Các con ông không hiểu nổi việc làm của bố, chỉ có vợ ông, vì một chữ thương mà theo chồng.

Nặng nợ với rừng
Có rừng để lao động sản xuất, có nhà để ở, cuộc sống ở làng không ngừng thay đổi, đám trẻ trong làng ngày một nhiều, chúng cần phải được đến trường. Đêm nằm vắt tay lên trán, ông trăn trở suy nghĩ, làng chỉ cách TP Đà Lạt hơn chục cây số mà tưởng như rừng thiêng nước độc ở nơi non cao vời vợi. Làng mở ở trong buôn, buôn ở trong rừng, cũng cách trở đò ngang. Nghĩ như thế, trong đầu ông lóe lên niềm tin, ông phải bắt tay vào xây dựng một phòng học cho con em làng Đarahoa. Ông vận động anh em, bạn bè cùng bà con trong làng cùng nhau đi chặt cây, cắt tranh, đóng bàn ghế. Ngôi trường nằm khiêm tốn bên cánh rừng thiêng Pơnơhat, giáp ranh giữa huyện Đức Trọng và TP Đà Lạt mọc lên thật đơn sơ mà đẹp đẽ.
Ông Phúc đã dành rất nhiều tâm huyết vào mái trường, dành cả sự ưu ái, trân trọng cho những người tình nguyện cõng chữ lên non. Nhiều thầy cô giáo trẻ mới ra trường ban đầu nhiệt huyết xung phong về núi, nhưng được vài hôm thì xách túi bỏ đi, vì họ ái ngại trước cơ sở vật chất mái lá tranh tre của trường, hoảng sợ trước những cung đường lầy lội, heo hút chênh vênh giữa rừng sâu núi thẳm. Họ cũng nản lòng khi nhìn vào học sinh lem luốc, ngơ ngác mù mịt đã đành, còn chẳng mặn mà với con chữ. Ngôi trường ngày càng trống vắng, hiu quạnh. Ông Phúc lại đi tìm và chờ đợi. Cuối cùng, cũng có một cô giáo tình nguyện về núi. Đó là cô Huyền Đông Sương, là người từng gắn bó với nhiều lớp học tình thương ở Đà Lạt từ nhiều năm trước. Nay cô lặn lội vào rừng sâu để mong đem con chữ đến cho các em ở đây.

Trẻ em có con chữ, cuộc sống của bà con cũng ấm dần lên, làng Đarahoa thay da đổi thịt từng ngày. Nhưng, đi kèm với tiến bộ, hiện đại chính là sự du nhập của những luồng văn hóa bên ngoài vào đã làm cho một bộ phận cộng đồng xa rời vốn văn hóa truyền thống độc đáo của dân tộc mình. Nhận rõ điều đó, ông Phúc chạy ngược xuôi kêu gọi cho bằng được các nghệ nhân có kinh nghiệm về làng Đarahoa dạy múa, dạy hát, dạy đồng bào đánh cồng chiêng. Ông kể: “Ngày ấy, nghệ nhân nổi tiếng như Ha Gruyn, K’Bia đã được tôi chiêu mộ. Tôi bỏ tiền ra mua 2 bộ chiêng về phục vụ việc dạy và chơi. Từ phong trào này, tôi chọn ra những hạt nhân xuất sắc để lập nên đội văn nghệ “cây nhà lá vườn” của làng Đarahoa”.
Bây giờ thì làng Đarahoa đã trở thành điểm đến không thể thiếu trong cẩm nang của khách du lịch mỗi khi tới Đà Lạt. Cư dân trong làng sống cuộc đời bình dị và giản đơn, vẫn giữ được màu sắc thuần khiết từ thời lập làng, điều đó thu hút nhiều du khách gần xa tìm đến. Với ba Phúc, sự thay da đổi thịt của làng Đarahoa chính là ngàn đóa hoa thơm dành tặng cho mình, sau những cống hiến bền bỉ, thủy chung của ông cho con người và cho những cánh rừng.
2 năm trở lại đây, cảm thấy sứ mệnh của mình đã hoàn thành, ông vui vẻ giao lại rừng cho bà con chăm sóc, bảo vệ và nương tựa. Ông dành thời gian cho những cuộc hành hương về nguồn. Mặc dù còn vài mảnh đạn trong người, một mắt đã bị hỏng, sức khỏe cũng giảm sút do tuổi cao nhưng ông vẫn tận tình đi thăm đồng đội từ Nam ra Bắc và tổ chức nhiều chuyến về chiến trường xưa. Ông cùng những người anh em vào rừng tìm kiếm hài cốt đồng đội, quy tập về các nghĩa trang liệt sĩ...
Chút thời gian còn lại, ông một mình lang thang về rừng, nằm nghe tiếng thì thầm của đại ngàn như vọng lên từ đất, nghe tiếng chim hồng hoàng đánh thức trong cái lạnh của sương mai, nghe gió núi gọi tên mình trong niềm kiêu hãnh.