Cuộc chiến chống lạm phát vẫn còn gian nan
Nền kinh tế toàn cầu đã trụ vững một cách đáng ngạc nhiên trước những ảnh hưởng nghiêm trọng của đại dịch COVID-19 và cuộc chiến ở Ukraine. Tuy nhiên, sự phục hồi vẫn còn mong manh vì lạm phát cao dai dẳng đang đặt ra nhiều rủi ro...
Việc nâng lãi suất vẫn chưa có hồi kết
Giới chức IMF và WB cảnh báo về một vấn đề có thể khiến nền kinh tế thế giới chệch hướng trong những tháng tới. Đó là lạm phát vẫn cao dai dẳng ở Mỹ và nhiều quốc gia khác, đặt ra khả năng các ngân hàng trung ương phải tiếp tục tăng lãi suất.
Các ngân hàng trung ương trên toàn thế giới cũng đang phát đi một thông điệp: Nếu chậm chân, các ngân hàng trung ương sẽ không thể giành phần thắng trong cuộc chiến chống lạm phát.
Tại khu vực Eurozone, lạm phát lõi tháng 3 lập kỷ lục ở mức 5,7% dù lạm phát toàn phần giảm mạnh còn 6,9%. Tình trạng này khiến giới chức Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) xác định phải tiếp tục thắt chặt chính sách tiền tệ...
Lạm phát toàn cầu đã giảm tốc trong tháng 5/2023, song Chủ tịch ECB Christine Lagarde một lần nữa khẳng định trước các nghị sĩ châu Âu rằng không có dấu hiệu rõ ràng nào cho thấy lạm phát cơ bản (không bao gồm giá năng lượng và lương thực) đã lên đến đỉnh điểm. Bà bày tỏ lo ngại đặc biệt về áp lực lạm phát do tăng lương.
ECB cũng đã công bố các dự báo kinh tế mới của mình. Nhìn chung, các dự báo của tháng 3/2023 đều được khẳng định, nhưng dự báo lạm phát cơ bản cho các năm 2023 và 2024 đã được điều chỉnh tăng lên.
Những chỉ số liên quan đến tăng trưởng của châu Âu đã bị hạ thấp, đặc biệt là do khu vực đồng euro đã bước vào một cuộc suy thoái nhẹ. Đây là dấu hiệu cho thấy chính sách thắt chặt tiền tệ, cũng như việc thu hẹp hoạt động cho vay của các ngân hàng trong khu vực đồng euro, đang bắt đầu phát huy tác dụng. Điều này không ngoài chủ trương của ECB.
Sau khi bất ngờ nâng lãi suất thêm 0,5 điểm phần trăm, Thống đốc Ngân hàng Trung ương Anh Andrew Bailey nhận định: “Nếu chúng ta không nâng lãi suất bây giờ, tình trạng lạm phát cao sẽ kéo dài lâu hơn”.
Dù lạm phát đang chậm lại ở nhiều nước sau nhiều đợt nâng lãi suất trong hơn một năm qua nhưng lạm phát vẫn ở trên mức mục tiêu 2% mà nhiều ngân hàng trung ương đặt ra. Nâng lãi suất là công cụ chủ yếu mà các ngân hàng trung ương có để kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ ra rằng có một độ trễ ít nhất 12 tháng từ lúc ngân hàng trung ương hành động cho đến khi hành động đó phát huy tác dụng lên nền kinh tế.
Đó là lý do Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tạm dừng tăng lãi suất tại cuộc họp tháng 6 sau 10 lần tăng liên tiếp kể từ tháng 3 năm ngoái. Nhưng, nhiều quan chức FED phát đi tín hiệu rằng lãi suất có thể tiếp tục tăng lên vào tháng tới, vì giống như ông Bailey, FED không muốn đứng trước nguy cơ mất khả năng kiểm soát lạm phát nếu không hành động ngay từ bây giờ.
Phát biểu trước Ủy ban Ngân hàng thuộc Thượng viện Mỹ, Chủ tịch FED Jerome Powell ngày 22/6 đã bảo vệ quan điểm cho rằng có thể cần phải tăng lãi suất hơn nữa để kiềm chế lạm phát, bất chấp những lo ngại về tác động của chính sách tiền tệ thắt chặt có thể đẩy tỷ lệ thất nghiệp tăng cao. Chủ tịch FED nhận định các hộ gia đình của người lao động đang bị ảnh hưởng trực tiếp và nhanh chóng do lạm phát cao, vì vậy, nước Mỹ cần đưa lạm phát trở lại mức 2%.
Bên cạnh việc tiếp tục khẳng định cam kết kiểm soát lạm phát, ông Powell cho biết đa số các nhà hoạch định chính sách của Ngân hàng Trung ương Mỹ đều cảm thấy đã gần đạt được mục tiêu, song “sẽ phù hợp để tăng lãi suất một lần nữa trong năm nay, và có thể là 2 lần, với giả định tình hình nền kinh tế diễn ra đúng như kỳ vọng”.
Tuy nhiên, ông Powell cũng giải thích về cách tiếp cận của FED trong những tháng tới khi các nhà hoạch định chính sách tranh luận về tốc độ tăng lãi suất. Chủ tịch FED lưu ý cơ quan này đang ở gần đích đến mong muốn và điều hợp lý là phải hành động với bước đi thận trọng.
Cũng theo ông Powell, hầu hết các nhà hoạch định chính sách trong Ủy ban Thị trường mở Liên bang (FOMC) cho rằng sẽ có thêm những đợt tăng lãi suất, nhưng FED muốn thực hiện biện pháp này với bước đi phù hợp, vốn cho phép cơ quan này có đầy đủ thông tin để đánh giá. Chủ tịch FED cho biết cơ quan này hiểu những khó khăn mà lạm phát cao đang gây ra và cam kết mạnh mẽ đưa lạm phát trở lại mục tiêu 2%.
Một trong những lý do các ngân hàng trung ương gặp khó khăn trong kiềm chế lạm phát là nhiều khu vực nhất định của nền kinh tế đang không phản ứng với việc tăng lãi suất. Ví dụ, giá dịch vụ tại Mỹ, không tính năng lượng, trong tháng 5 tăng 6,6% so với cùng kỳ năm ngoái, cao hơn mức 5,2% ghi nhận vào tháng 5/2022, cho thấy xu hướng tăng giá trong lĩnh vực dịch vụ vẫn kéo dài.
Khi lạm phát trở nên dai dẳng hơn, các ngân hàng trung ương sẽ càng khó để kiềm chế. Nhưng, khó không có nghĩa là không thể. Vấn đề chỉ là các ngân hàng trung ương sẽ sẵn sàng để nền kinh tế chịu bao nhiêu tổn thất từ việc tăng lãi suất để đưa lạm phát về mức mong muốn.
Ông Michael Bordo, giáo sư kinh tế kiêm Giám đốc Trung tâm Lịch sử tài chính và tiền tệ của Đại học Rutgers, cho rằng việc mất quá nhiều thời gian để đưa ra quyết định này cũng có những hậu quả của nó. Theo ông, “càng chờ lâu, các ngân hàng trung ương sẽ càng phải thắt chặt nhiều hơn để kìm hãm lạm phát”, vì nghiên cứu chỉ ra rằng nếu không được giải quyết, lạm phát có thể dai dẳng hơn và các ngân hàng trung ương sẽ càng khó kiểm soát bằng việc nâng lãi suất.
Lạm phát cao đặt ra nhiều rủi ro
Xu hướng tăng của lãi suất và tỷ giá đồng USD có thể làm trầm trọng thêm thách thức mà nhiều nền kinh tế đang phải đối mặt: Chi phí nhập khẩu lương thực-thực phẩm tăng cao giữa lúc nợ nần chồng chất. Tỷ giá bạc xanh đã “hạ nhiệt” từ đầu năm đến nay, nhưng có thể tăng trở lại nếu FED tăng lãi suất thêm nhiều hơn kỳ vọng và giữ lãi suất ở mức cao trong thời gian lâu hơn. Hàng hóa cơ bản giao dịch trên thị trường quốc tế và các khoản nợ nước ngoài thường được định giá bằng USD nên có độ nhạy cảm lớn với các động thái chính sách tiền tệ của FED.
Lãi suất tăng cũng có thể làm trỗi dậy cuộc khủng hoảng ngân hàng đã khiến 3 ngân hàng Mỹ liên tiếp sụp đổ hồi tháng 3 và “đế chế” nhà băng Credit Suisse của Thụy Sĩ được đối thủ đồng hương UBS mua lại.
Áp lực trong lĩnh vực ngân hàng đã dịu đi trong những tuần gần đây, nhưng vẫn khiến bức tranh kinh tế tổng thể trở nên tồi tệ hơn dưới góc nhìn của IMF. “Căng thẳng trong lĩnh vực tài chính có thể khuếch đại và sự lây lan có thể xảy ra, làm suy yếu nền kinh tế thực thông qua sự suy giảm nghiêm trọng các điều kiện tài chính và buộc các ngân hàng trung ương phải xem xét lại đường lối chính sách của họ. Nguy cơ hạ cánh cứng, đặc biệt là đối với các nền kinh tế phát triển, đã trở nên lớn hơn nhiều”, IMF nhận định.
Trong kịch bản chính của IMF, kinh tế thế giới sẽ tăng trưởng 2,8% trong năm nay, nhưng nếu căng thẳng tài chính gia tăng, tốc độ tăng trưởng có thể chỉ đạt 2,5%, trong đó tăng trưởng của các nền kinh tế phát triển sẽ giảm dưới 1%.
Cũng theo IMF, năng lực ngành ngân hàng Mỹ sẽ giảm 1% trong năm nay, khiến tốc độ tăng trưởng kinh tế Mỹ thiệt hại 0,44 điểm phần trăm. “Điều quan trọng nhất là theo dõi những rủi ro có thể đang lẩn khuất trong các ngân hàng và các định chế phi ngân hàng hoặc trong những lĩnh vực như bất động sản thương mại”, Giám đốc điều hành IMF Kristalina Georgieva phát biểu.
Trong nỗ lực điều chỉnh để thích ứng với môi trường lãi suất tăng, nhiều định chế tài chính ở Mỹ đã giảm bớt hoạt động cho vay. Điều này đặt ra lo ngại rằng các doanh nghiệp nhỏ có thể khó tiếp cận các khoản vay ngắn hạn.
Tại các nền kinh tế mới nổi ở châu Âu, tốc độ tăng lãi suất chưa từng có tiền lệ, cộng thêm sự giảm tốc của kinh tế Tây Âu, có thể đặt ra thách thức cho những doanh nghiệp đã vay nợ nhiều trong thời gian lãi suất thấp. Gánh nặng nợ nần này có thể trở thành một “quả bom hẹn giờ”, chuyên gia kinh tế trưởng Beata Javorcik của Ngân hàng Tái thiết và Phát triển châu Âu (EBRD) nhận định.