Ngày trở về của trung tá Phạm Văn Đính trong mùa hè đỏ lửa

Thứ Năm, 26/04/2012, 10:35

Như những gì chúng ta đã biết, lúc 11h30' ngày 30/3/1972, Bộ Tư lệnh Chiến dịch Trị-Thiên đã phát lệnh tấn công vào các căn cứ hỏa lực của quân đội Sài Gòn đóng dọc theo vùng giới tuyến nằm trên địa bàn của tỉnh Quảng Trị. Bằng những đợt tấn công dồn dập, trúng mục tiêu của Quân giải phóng, chỉ trong một thời gian ngắn giao tranh đã làm tê liệt hoàn toàn những cứ điểm của địch...

Lúc 14h30' ngày 2/4/1972, trước cơn mưa pháo kích như bão lửa của Trung đoàn Pháo binh 38 (Đoàn Bông Lau) và sự tấn công bằng bộ binh của Sư đoàn 304 chủ lực của Đại tá Hoàng Đan. Vòng vây ở căn cứ Carroll của địch đã bị siết chặt, Trung tá Phạm Văn Đính - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 của Sư đoàn 3 Bộ binh quân đội Sài Gòn đã lên hệ thống truyền tin để xin được gặp người chỉ huy cao nhất của Đoàn Bông Lau, xin ngưng bắn để treo cờ trắng dẫn binh sĩ của mình trở về với Cách mạng.

Đúng một tháng sau, ngày 2/5/1972, trước tình hình vô cùng nguy khốn và thiệt hại nặng nề của các lực lượng tác chiến Việt Nam Cộng hòa (VNCH), Chuẩn tướng Vũ Văn Giai - Sư đoàn trưởng Sư đoàn 3 Bộ binh ngụy - Tư lệnh chiến trường Quảng Trị đã tuyên bố triệt thoái để tìm đường tháo chạy về phương Nam, trước khi từng đoàn Quân giải phóng rầm rập tiến về giải phóng Quảng Trị.

Ngày trở về của viên trung tá

Trung tá Phạm Văn Đính, người Thừa Thiên, tốt nghiệp Khóa 9 Trường Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức và bắt đầu nổi tiếng khi còn là trung úy chỉ huy liên đại đội Hắc Báo (lực lượng phản ứng cấp thời được thành lập vào năm 1965) theo sáng kiến của chuẩn tướng Nguyễn Văn Chuân - Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh ngụy lúc bấy giờ. Trong cuộc đời binh nghiệp của mình, Trung tá Đính được thăng cấp rất nhanh, từ thiếu úy lên trung tá chỉ trong vòng 5 năm. 

Rời Hắc Báo, Đính được cử làm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn 3 Bộ binh. Khi tiểu đoàn này hoạt động tại quận Quảng Điền (Thừa Thiên), Tiểu đoàn trưởng Đính được tướng Ngô Quang Trưởng đề cử kiêm nhiệm quận trưởng và được thăng thiếu tá vào tháng 6/1967. Ngày 1/1/1969, thiếu tá Đính là 1 trong 3 tiểu đoàn trưởng bộ binh đầu tiên của Sư đoàn 1 và của Quân lực VNCH được thăng cấp trung tá, sau đó được đề cử giữ chức Trưởng phòng 3  - Bộ Chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 1 Bộ binh (Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy tiền phương lúc đó là Đại tá Vũ Văn Giai). Giữa năm 1970, Trung tá Đính được bổ nhiệm làm Trung đoàn phó Trung đoàn 54 Bộ binh và đến tháng 10/1971 được đề cử làm Chỉ huy trưởng Trung đoàn 56 khi mới 28 tuổi.

Khoảng 9h sáng ngày 30/3/1972, khi Trung đoàn 2 và 56 hoán chuyển trại và vùng trách nhiệm theo chu kỳ đã định sẵn. Trung đoàn 56 của Trung tá Đính từ căn cứ C2 ở Bắc Cam Lộ di chuyển về hướng Nam, thay thế Trung đoàn 2 ở căn cứ Carroll, căn cứ hỏa lực Fuller và Khe Gió.

11h30', khi đoàn quân còn đang di chuyển, một số chưa kịp vượt qua sông Hiếu, chỉ có một đại đội tác chiến và chỉ huy vừa vào đến căn cứ Carroll thì bất ngờ bị Quân giải phóng tấn công. Pháo 130 ly của Đoàn Bông Lau bắn tràn ngập các mục tiêu.

Ngày 31/3/1972, Trung tá Đính liên lạc với chuẩn tướng Vũ Văn Giai để xin tiếp viện. "Nếu không được tiếp viện, căn cứ chỉ có thể giữ được vài ngày nữa thôi" - Đính báo cáo với tướng Giai. "Ráng chờ, sẽ có tiếp viện, "tướng Giai trả lời. Hôm sau, 1/4, tướng Hoàng Xuân Lãm - Tư lệnh Quân đoàn 1 của Quân lực VNCH đích thân gọi cho Đính. Lạc quan vì nghĩ rằng mình sẽ có tin vui, nhưng tướng Lãm chỉ ra lệnh vắn tắt, là Sư đoàn 3 Bộ binh và Quân đoàn 1 không còn gì để tiếp viện. Trung đoàn 56 phải giữ căn cứ Carroll bằng mọi giá!

Trung tá Phạm Văn Đính nói lời tri ân với Cách mạng.

Sáng ngày 2/4/1972, các xạ thủ của Đoàn Bông Lau tiếp tục tập trung hỏa lực tấn công vào căn cứ Carroll. Trung tá Đính liên tục gọi điện về Bộ chỉ huy Sư đoàn 3 để xin tăng viện, nhưng mọi chờ đợi của Đính và thuộc cấp của mình đều chìm trong vô vọng, và điều quan trọng nhất là không nhận được bất cứ câu trả lời cụ thể nào về số phận của Trung đoàn 56.

Biết là vòng vây của Quân giải phóng ngày càng khép chặt trong tình thế không có bất cứ một phương án kháng cự nào khả thi. Trung tá Đính đã lên hệ thống truyền tin để liên lạc xin được gặp vị chỉ huy cao nhất của Quân giải phóng đang nhằm hướng tấn công vào Trung đoàn 56 tại cứ điểm Carroll. Sự kiện này đã được cựu chiến binh Hồ Văn Duyệt kể lại như sau: "Hồi đó tôi là giáo viên Trường Sĩ quan Pháo binh được phái đi phục vụ cuộc tiến công chiến lược năm 1972. Tôi được đi cùng Trung đoàn Pháo binh 38, chi viện cho Sư đoàn 304, tấn công căn cứ Carroll do Trung đoàn 56, Sư đoàn 3 đóng giữ.

Ngày 2/4/1972, đồng chí Trung đoàn phó pháo binh chỉ huy đài quan sát phải lên Sở chỉ huy Sư đoàn họp, ủy nhiệm cho tôi thay thế tiếp tục thực hiện kế hoạch hỏa lực. Khoảng đầu giờ chiều hôm ấy, một chiến sĩ trực vô tuyến điện báo cáo với tôi: "Có một thằng nó yêu cầu gặp thủ trưởng!", tôi bảo: "Nó phá rối đấy chứ gặp gì, mặc kệ nó". Một lát sau, chiến sĩ lại báo cáo: "Thằng đó xưng là trung tá chỉ huy trưởng xin gặp Sao Hôm". Sao Hôm là mật danh của đài quan sát chỉ huy.

Theo cách xưng hô, tôi đoán là một viên sĩ quan nên tôi cầm máy. "Alô! Tôi là Sao Hôm đây, các anh cần gặp có việc gì?". Phía bên kia trả lời: "Tôi, trung tá Phạm Văn Đính - Trung đoàn trưởng Trung đoàn 56 xin được gặp cấp chỉ huy cao nhất. Xin ông cho biết danh tính và cấp bậc".

Nghe câu nói đó, tôi nghĩ tay này chắc được huấn luyện rất chính quy ở bên Mỹ. Riêng tôi, chưa từng dự kiến đối thoại với địch nên lúng túng không biết xưng hô thế nào. Tôi trả lời Trung tá Đính: "Chúng tôi không có thói quen xưng hô tên tuổi cấp bậc với đối phương trong lúc tác chiến, anh gọi tôi là Sao Hôm là được rồi. Tôi không phải là cấp chỉ huy cao nhất, nhưng có thể trả lời những gì anh cần hỏi, nếu quá quyền hạn tôi sẽ chuyển đạt lên cấp trên".

Đính nói: "Tôi đề nghị các ông dừng hỏa lực trong một giờ, chúng tôi muốn thương lượng". Tôi dùng điện thoại báo cáo lên cấp trên, Sư đoàn điện xuống chỉ đạo: "Anh có thể gọi họ là ông, anh bảo nó đầu hàng đi chứ còn thương lượng cái gì". Tôi lên vô tuyến điện trả lời viên trung tá chỉ huy trưởng: "Tôi nghĩ đề nghị của ông không thích hợp, các ông đã mất Đầu Mầu, Ba Hồ, Động Toàn rồi. Lữ đoàn thiết giáp lên giải vây cho các ông đã bị đánh tan tác, chạy lui rồi. Đông Hà cũng sắp mất. Chắc ông cũng đã nghe tiếng súng máy gần kề rồi. Các ông hạ vũ khí ngừng chiến đấu là tốt nhất. Các ông nên đầu hàng đi".

Viên trung tá trả lời: "Có đầu hàng cũng phải thảo luận các điều kiện chứ". Tôi nói: "Không cần thảo luận đâu! Ông có biết chính sách 10 điểm của Mặt trận giải phóng miền Nam không?". Đính trả lời: "Tôi có biết". Tôi bảo: "Chúng tôi chấp hành đầy đủ chính sách của 10 điểm đó". Đính bảo rằng: "Nhưng tôi cũng cần triệu tập các sĩ quan dưới quyền, họ chỉ huy từng bộ phận rải rác khắp nơi và cần thời gian để họp".

Chỉ huy Sư đoàn vẫn tập trung để theo dõi cuộc trao đổi của tôi với viên trung tá chỉ huy trưởng, đồng thời gọi điện thoại xuống để hướng dẫn cho tôi một số thủ tục. Tôi nói với trung tá Đính: "Vậy thì tôi đồng ý ngừng hỏa lực trong vòng 1 giờ theo yêu cầu của ông. Còn yêu cầu của chúng tôi là ông cho kéo cờ trắng lên cột cờ trung tâm của căn cứ trước khi ngừng hỏa lực. Sau khi ngừng hỏa lực được 30 phút, một nửa số quân của ông phải ra khỏi công sự, lên mặt đất, không mang theo vũ khí".

Ngay sau đó, Đính tập hợp 13 sĩ quan chỉ huy của trung đoàn trong hầm chỉ huy để quyết định. Đính mở lời trước, cho biết tình thế rất tuyệt vọng. Căn cứ không thể cầm cự trước sự tấn công liên tục của Quân giải phóng. Sau đó Đính nói ra ý nghĩ thật của mình, là "Nếu tiếp tục chiến đấu, nhiều người sẽ chết. Và nếu chúng ta có bị thương, có chết, để có được một chiến thắng, thì cũng không ai lo cho chúng ta sau đó. Chúng ta bây giờ phải tự lo lấy thân".

Tiếp theo Đính nói về đề nghị của chỉ huy Quân giải phóng. Sau đó Phạm Văn Đính hỏi tất cả muốn tử thủ, đánh mở đường máu, hay đầu hàng? Nếu tất cả các sĩ quan có mặt đồng ý tiếp tục đánh thì trung tá Đính sẽ nghe chiều theo ý họ. Trong số sĩ quan hiện diện, chỉ có Thiếu tá Tôn Thất Mãn, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 của Trung đoàn 56 lên tiến đòi đánh đến cùng. Số sĩ quan còn lại yên lặng không ý kiến.

Trước sự yên lặng của các sĩ quan, Đính nói về gia đình của họ, về viễn ảnh những vui mừng khi họ được sống sót trở về. Tất cả đều đồng ý đầu hàng, chỉ có Thiếu tá Mãn không bỏ phiếu. Với quyết định đã được đồng thuận, Đính đi qua lô cốt của hai sĩ quan cố vấn Mỹ để thông báo. Nhưng thiếu tá Joseph Brown và trung tá William Camper không đồng ý. Camper đề nghị trung đoàn dùng những chiếc thiết giáp có trong căn cứ đánh bung ra vòng đai mở đường máu. Đính không chịu, nói vô ích.

Lúc này, có một máy bay trực thăng trên đường tiếp tế đạn cho căn cứ Mai Lộc bay ngang qua đó, ghé lại bốc 2 viên sĩ quan Mỹ cùng với khoảng 30 binh sĩ không chịu đầu hàng muốn đi theo 2 sĩ quan cố vấn. Khi chiếc trực thăng cất cánh thì cờ trắng đầu hàng đã bay trên căn cứ Carroll.

Số phận của tướng ngụy Vũ Văn Giai

Chuẩn tướng quân đội Sài Gòn Vũ Văn Giai sinh năm 1934, tại làng Duy Tắc, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định trong một gia đình có cha mất sớm, mẹ làm ruộng nuôi 1 con gái và 3 con trai, ông ta là con trai út trong gia đình. Khi đang theo học lớp Đệ nhị (lớp 11 bây giờ), Vũ Văn Giai đã nộp đơn thi vào Khóa 10 Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt. Vũ Văn Giai ra trường tháng 6/1954, cấp bậc thiếu uý hiện dịch và được thuyên chuyển về Tiểu đoàn 5 Nhảy dù ở cạnh Hồ Tây, Hà Nội, giữ chức trung đội trưởng.

Tháng 7/1954, đất nước bị chia hai, quân đội Quốc gia rút về Nam Việt Nam. Sau hai năm đeo lon thiếu úy, Vũ Văn Giai được thăng cấp trung uý năm 1956, giữ chức đại đội trưởng Đại đội 3 Tiểu đoàn 5 Nhảy dù ngụy. Năm 1961, ông ta được thăng đại úy, rồi lên thiếu tá năm 1964 khi đang làm Trưởng phòng 2, Sư đoàn 1 Bộ binh ở Huế.

Năm 1966, Vũ Văn Giai được thăng trung tá lúc đang giữ chức Trung đoàn trưởng Trung đoàn 2, Sư đoàn 1 Bộ binh, trấn giữ vùng giới tuyến ở Đông Hà, Quảng Trị. Sau chiến cuộc Mậu Thân năm 1968, Giai lên đại tá và được đưa giữ chức Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Tiền phương Sư đoàn 1 Bộ binh tại Ái Tử, Đông Hà, Quảng Trị. Sau cuộc hành quân Lam Sơn 1971 ở Hạ Lào, Giai được gắn lon chuẩn tướng.

Tháng 10/1971, Quân lực VNCH thành lập thêm Sư đoàn 3 bộ binh và Giai được thuyên chuyển đến làm Sư đoàn trưởng sư đoàn này. Bộ tư lệnh và hậu cứ chính của Sư đoàn 3 đóng ở căn cứ Ái Tử - Quảng Trị do Mỹ để lại sau khi rút quân.

Không thể kháng cự sức tấn công như vũ bão của Quân giải phóng tại chiến trường Quảng Trị. Tướng Giai đã gọi điện cho trung tướng Hoàng Xuân Lãm - Tư lệnh Quân đoàn 1 để xin ý kiến, nhưng chỉ nhận được từ tướng Lãm những chỉ đạo chung chung. Chiến trường Quảng Trị nóng lên từng ngày, Tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu cùng với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm đã đáp máy bay đến Huế rồi cho gọi tướng Hoàng Xuân Lãm, tướng Phạm Văn Phú (Tư lệnh Sư đoàn 1 Bộ binh), tướng Vũ Văn Giai đến Dạ Lê gần sân bay Phú Bài để họp bàn. Theo lệnh của Thiệu, tướng Lãm đã di chuyển Bộ Tư lệnh Quân đoàn 1 ra Mang Cá - Huế để gần với mặt trận hơn.

Cuối tháng 4/1972, tướng Giai gọi điện báo cáo với tướng Lãm về tình hình nguy kịch của quân đội Sài Gòn: "Trình trung tướng, Quảng Trị không còn gì để giữ nữa, nếu cầm cự sẽ mất hết quân, xin trung tướng cho rút lui…". Tướng Lãm không trả lời, trong khi sự tấn công của Quân giải phóng mỗi lúc thêm mạnh mẽ… Hết cách, tướng Giai đã ra lệnh cho các lực lượng ngụy đang có mặt ở chiến trường Quảng Trị rút quân.

Thua trận ở Quảng Trị, ngày 4/5/1972, Vũ Văn Giai bị gọi về Bộ Tổng tham mưu để phúc trình sự việc. Về Bộ Tổng tham mưu, Vũ Văn Giai đến trình diện ở Phòng thanh tra và bị giữ tại Đại đội Tổng hành dinh một tháng. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh truy tố Giai rồi ông này bị chuyển qua Khám Chí Hòa và bị đưa ra tòa. Tòa án Quân sự Sài Gòn kết án Vũ Văn Giai 5 năm tù vì tội "bất tuân thượng lệnh". Đang thọ án, thì miền Nam hoàn toàn giải phóng. Cũng như nhiều sĩ quan cao cấp của quân đội VNCH, Vũ Văn Giai phải đi học tập cải tạo cho đến năm 1987 thì được trả tự do. Năm 1993, Vũ Văn Giai cùng gia đình sang định cư tại bang California - Mỹ theo diện HO

Phan Bùi Bảo Thy
.
.