Tiến trình “biến hình” của vũ khí sinh học: Dự án bí mật Aralsk-7

Thứ Ba, 31/10/2017, 21:41
Trong cuộc chạy đua chế tạo vũ khí sinh học quyết liệt cùng với Mỹ và Anh, Vozrozhdeniya (tiếng Nga nghĩa là "tái sinh") là nơi được Liên Xô tiến hành dự án cực kỳ tuyệt mật - những người biết đến nó gọi tên là "Aralsk-7".


Khu phức hợp thí nghiệm trên hòn đảo mang tên "Tái sinh"

Năm 1948, khi Vozrozhdeniya còn là hòn đảo yên bình tương đối nhỏ nằm trong vùng biển Aral giữa Uzbekistan và Kazakhstan, Liên Xô đã biến nơi này thành địa điểm bí mật thử nghiệm vũ khí sinh học. Hòn đảo được khám phá từ thế kỷ XIX và nằm biệt lập hoàn toàn đủ để trở thành địa điểm hoàn hảo che giấu sự dò xét của tình báo phương Tây.

Căn cứ chế tạo vũ khí sinh học trên đảo Vozrozhdeniya được phân chia thành 2 khu vực riêng biệt - thị trấn Kantubek (nay là vùng đất hoang vắng không người ở) là nơi đội ngũ các nhà khoa học Xôviết cùng với gia đình sinh sống, và khu liên hợp biệt lập khác (gọi là PNIL) nằm cách đó hơn 3km về phía bắc dùng làm nơi thí nghiệm các mầm bệnh.

Thị trấn ma đổ nát Kantubek trên đảo Vozrozhdeniya.

Trong cuộc chạy đua chế tạo vũ khí sinh học quyết liệt cùng với Mỹ và Anh, Vozrozhdeniya (tiếng Nga nghĩa là "tái sinh") là nơi được Liên Xô tiến hành dự án cực kỳ tuyệt mật - những người biết đến nó gọi tên là "Aralsk-7".

Mục tiêu của dự án là tạo những mầm bệnh cực kỳ nguy hiểm, lây lan mạnh, "lấn lướt" cả thuốc kháng sinh cũng như nhiễm bệnh cho cả những người đã được tiêm vaccin. Dự án chỉ là một phần trong chương trình vũ khí sinh học với quy mô công nghiệp được bảo mật chặt chẽ đến mức không đánh dấu trên bản đồ Liên Xô. Aralsk-7 thu hút sự tham gia của hơn 50.000 người tại 52 cơ sở sản xuất nằm rải rác khắp lãnh thổ Liên Xô.

Trong vòng 40 năm, các nhà khoa học đều đặn thử nghiệm thả mầm bệnh vào môi trường không khí trên đảo để quan sát tác động của chúng đến vật nuôi. Đó là các tác nhân gây bệnh than, đậu mùa, tularemia, bệnh sốt typhus, dịch hạch v.v… Hiện nay, mầm bệnh dịch hạch vẫn còn tồn tại ở vùng Trung Á và thậm chí số ca nhiễm bệnh tiếp tục tăng mạnh sau khi Liên Xô tan rã.

Còn mầm bệnh than đầu tiên được sản xuất với số lượng rất lớn trong cơ sở mang tên Compound-9 nằm gần thành phố miền trung Sverdlovsk (nay là Yekatarinburg). Năm 1972, Liên Xô bắt đầu sử dụng kỹ thuật di truyền học phân tử để biến các mầm bệnh thành vũ khí có sức hủy diệt cực kỳ khủng khiếp - đặc biệt nhất là loại bệnh than được các nhà khoa học đặt tên là STI.

Quang cảnh như địa ngục bên trong PNIL.

Mầm bệnh than này kháng được một loạt thuốc kháng sinh hiệu quả thời đó bao gồm: penicillin, rifampin, tetracycline, chloramphenicol, macrolides và lincomycin. STI được thiết kế bổ sung gene từ vi khuẩn Bacillus cereus để trở thành sát thủ đáng sợ có khả năng phá vỡ tế bào hồng cầu và phân hủy mô người. Chưa dừng lại ở đó, bào tử bệnh than còn được nghiền nhỏ đến kích thước khoảng 5 micromét - tức nhỏ hơn ít nhất 30 lần chiều rộng sợi tóc người. Với kích thước siêu nhỏ này, con người rất dễ hít vào phổi.

Năm 1988, sau vụ rò rỉ mầm bệnh than dưới dạng vũ khí ở Compound-9 làm chết khoảng hơn 100 người, chính quyền Xôviết mới quyết định tiêu hủy kho vũ khí nguy hiểm của mình. Những chiếc thùng khổng lồ chứa bào tử bệnh than trộn với chất khử trùng cực mạnh được vận chuyển cẩn thận bằng sà lan đến Vozrozhdeniya. Hỗn hợp mầm bệnh than nặng khoảng từ 100 đến 200 tấn được chôn trong những cái hố đào sâu dưới đất một cách vội vã rồi dần đi vào quên lãng.

Địa điểm chính xác của những chiếc thùng chứa mầm bệnh than không được tiết lộ, song những hố chôn có kích thước lớn đến mức có thể ghi nhận được từ ảnh chụp ngoài không gian. Những bức không ảnh của Cục Tình báo Trung ương Mỹ (CIA) chụp năm 1962 tiết lộ trên đảo Vozrozhdeniya có rất nhiều doanh trại quân đội, tòa nhà nghiên cứu cũng như một địa điểm thí nghiệm lộ thiên.

Một lọ chứa chất độc tìm thấy trong PNIL.

Tuy nhiên, vi khuẩn bệnh than tồn tại trong tự nhiên dưới dạng bào tử "chưa được kích hoạt" này có khả năng sống còn trong những điều kiện khắc nghiệt nhất như là tiếp xúc với chất khử trùng mạnh nhất hay bị nung nóng trong vòng 2 phút ở nhiệt độ 180 độ C. Nói tóm lại, cho dù bị chôn sâu dưới đất, số lượng bào tử khổng lồ này vẫn sống còn đến hàng trăm năm.

Do đó mà hòn đảo Vozrozhdeniya còn được mô tả là kho chứa mầm bệnh than nguy hiểm nhất và lớn nhất lịch sử loài người, gây kinh hoàng cho mọi sinh vật. Ví dụ trong một trường hợp, bào tử bệnh than được phục hồi từ một địa điểm khảo cổ tại tàn tích bệnh viện thời Trung cổ ở Scotland vẫn chứng minh được khả năng giết người.

Hòn đảo chết chóc được thanh tẩy

Bệnh than giết người theo vài cách khác nhau và mức độ khủng khiếp tùy vào việc con người bị nhiễm như thế nào. Ví dụ bệnh than có thể lây nhiễm qua đường ruột và cho đến nay vẫn làm chết rất nhiều người tại các nước phát triển. Triệu chứng rất đa đạng: nôn mửa, tiêu chảy và đa tổn thương từ miệng đến ruột.

Bệnh than cũng lây nhiễm qua tiếp xúc da. Ghê gớm nhất là hít phải bào tử bệnh than bởi vì đầu tiên chúng sẽ đi đến hạch bạch huyết rồi từ đó tự nhân lên, lan ra máu gây tổn thương mô trên diện rộng kết hợp xuất huyết trong. Theo Talima Pearson, nhà sinh vật học Đại học Bắc Arizona (Mỹ),  đó là lý do mà bệnh than được coi là thứ vũ khí sinh học "lý tưởng" nhất để tấn công đối phương.

Hòn đảo Vozrozhdeniya là nguồn gây ra hàng loạt tai họa đáng sợ. Ví dụ vào năm 1971, một nhà khoa học nữ trẻ tuổi bất ngờ ngã bệnh với sự xuất hiện những đốm nâu kỳ lạ trên cơ thể sau khi tham gia nghiên cứu trên con tàu mang tên Lev Berg.

Sau đó, bà được chẩn đoán mắc bệnh đậu mùa mặc dù trước đó đã được tiêm vaccin phòng bệnh này. Tuy nhà khoa học nữ sau đó khỏi bệnh nhưng bà đã kịp lây bệnh cho 9 người khác ở quê nhà và 3 người trong số đó không qua khỏi (một người là em trai bà).

Một năm sau, thi thể của 2 ngư dân mất tích được phát hiện trên con thuyền đánh cá trôi dạt gần đảo và người ta cho rằng, họ mắc bệnh dịch hạch. Không lâu sau đó, người dân đảo bắt đầu kéo lên hàng loạt mẻ lưới toàn cá chết không rõ nguyên nhân. Tháng 5-1988, 50.000 con linh dương Saiga đồng loạt ngã lăn ra chết sau khi gặm cỏ được 1 giờ.

Kể từ khi bị bỏ hoang vào đầu thập niên 1990, hòn đảo chết chóc Vozrozhdeniya chỉ tiếp nhận vài cuộc nghiên cứu. Năm 2005, Nick Middleton - nhà báo và chuyên gia địa lý học Đại học Oxford (Anh) - dẫn đầu một nhóm nhà khoa học đến hòn đảo để thực hiện dự án làm sạch môi trường. Cùng tham gia nhóm của Middleton là Dave Butler, chuyên gia từng phục vụ trong quân đội Anh.

Để đến được đảo, nhóm của Middleton và Butler phải băng qua Kazakhstan vì khó xin được visa từ Uzbekistan. Do hành trình khó khăn nên nhóm nhà khoa học phải nhờ đến sự giúp đỡ từ đội quân chuyên săn tìm đồ phế thải trong thị trấn bỏ hoang Kantubek trên đảo, sẵn sàng đào bới tìm bất cứ thứ gì có thể bán được mà bất chấp nguy hiểm.

Một tuần trước khi đến đảo Vozrozhdeniya, toàn bộ thành viên nhóm thám hiểm đều được sử dụng thuốc kháng sinh. Khi đặt chân lên đảo, mọi người bắt buộc phải mang mặt nạ phòng độc, mặc đồ bảo hộ và mang giày cao su dày.

Các bào tử bệnh than được tìm thấy trong vài mẫu đất và chính quyền Mỹ đã tài trợ 6 triệu USD cho dự án nghiên cứu đồng thời làm sạch môi trường đảo của nhóm các nhà khoa học can đảm.

Theo dự án, họ đào một hố sâu gần hố chôn cũ, trải thêm vài lớp lót bằng plastic và rải lên đó hàng ngàn kg chất bột khử trùng cực mạnh. Sau đó, vài tấn đất nhiễm khuẩn bệnh than được trút xuống hố và ủ với nhiệt độ 50 độ C trong vòng vài ngày để tiêu diệt mầm bệnh nguy hiểm. Tổng cộng 100 nhân công địa phương được thuê làm việc cho dự án kéo dài 4 tháng.

Les Baillie, chuyên gia quốc tế về mầm bệnh than, Đại học Cardiff (Anh) và nhà địa lý Nick Middleton.

Tuy nhiên, câu chuyện vẫn chưa kết thúc ở đây. Toàn bộ đất đai trên đảo, chứ không riêng gì nơi thử nghiệm, đã bị nhiễm khuẩn nặng nề sau gần nửa thế kỷ tiến hành chương trình vũ khí sinh học - theo Les Baillie, chuyên gia quốc tế về mầm bệnh than Đại học Cardiff (Anh) và từng trải qua một thập niên làm việc cho Porton Down, cơ sở nghiên cứu vũ khí sinh học trước đây của quân đội Anh.

Ngoài ra, nhóm nhà khoa học còn phải cho đào thêm nhiều hố chôn hàng trăm loài động vật bị nhiễm khuẩn. Les Baillie lưu ý hố chôn phải nằm ở vị trí khô ráo bởi vì "nếu khu vực ngập nước thì bào tử có thể trồi lên mặt đất và những con giun đất sẽ mang mầm bệnh ra khắp xung quanh". Theo Baillie, có thể dễ dàng nhận biết những con vật chết do bệnh than nếu nhìn thấy xác phồng lên kèm theo xuất huyết.

Sau khi tìm thấy khu phức hợp thí nghiệm vũ khí sinh học PNIL, nhóm nhà khoa học chứng kiến cảnh tượng bừa bộn không thể tả với đủ thứ rác rưởi độc hại. Những bể lớn bằng kính dày chứa chất độc hại nằm nối tiếp nhau sát vách tường.

Trên sàn nhà vương vãi đầy mảnh vỡ của hàng trăm ngàn lọ thủy tinh, ống nghiệm và đĩa petri cấy vi khuẩn. Những bộ đồ bảo hộ, mặt nạ chống độc và ống dẫn khí bị vất lung tung khắp nơi. Khung cảnh trong khu phức hợp PNIL trông chẳng khác nào địa ngục. Ngoài mối đe dọa từ mầm bệnh than, nhóm nhà khoa học còn gặp nguy cơ hít phải chất gây ung thư    formaldehyde. Do tính chất nguy hiểm, nhóm của Middleton và Butler chỉ lưu lại trong khu phức hợp chừng 15 phút rồi thoát ra thật nhanh.

Trước khi rời đảo, Butler cho xây dựng một vùng khử nhiễm ngay trên khu vực bãi biển mà về cơ bản giống như căn phòng lộ thiên để dự trữ xà phòng kháng khuẩn cho phép các nhà khoa học tắm gội khi trở lại đảo lần sau.

Thêm vào đó, Butler còn phải chắc chắn rằng bất cứ bào tử nguy hiểm nào cũng không được vướng trong tóc hay trên cơ thể. Middleton mô tả về thị trấn ma đổ nát Kantubek: "Không có một con chim hay côn trùng nào ở nơi đây. Mọi thứ hoàn toàn yên tĩnh một cách đáng sợ". David Evans, nhà virus học Đại học Alberta (Canada), nhận định đảo Vozrozhdeniya không còn khả năng gây nhiễm bệnh đậu mùa nữa bởi vì như ông giải thích: "Chúng tôi bảo quản virus ở nhiệt độ - 80 độ C trong phòng thí nghiệm nhưng chúng vẫn mất dần khả năng lây nhiễm".

Mới đây, các nhà khoa học Nga phát hiện thi thể số nạn nhân của trận dịch bệnh đậu mùa bùng phát tại Siberia cách đây hơn thế kỷ nhờ lớp băng tan chảy do biến đổi khí hậu. Xét nghiệm trên những xác đông cứng này, họ không tìm thấy virus đậu mùa mà chỉ còn lại ADN của chúng.

Duy Minh (tổng hợp)
.
.