Thiếu tướng Trần Tử Bình: Gan vàng dạ sắt

Thứ Năm, 02/10/2025, 16:03

Trong 60 năm cuộc đời thì có đến gần 8 năm Thiếu tướng Trần Tử Bình bị tù đày ở các nhà tù Côn Đảo, Thái Bình, Ninh Bình, Hà Nam, Hỏa Lò - đều là những địa ngục trần gian. Sự trưởng thành, tôi luyện của người chiến sĩ cách mạng xuyên qua những gông cùm, xiềng xích; tích đọng thành lòng yêu nước, khát vọng tự do và sức mạnh để quên mình chiến đấu trọn đời vì cách mạng.

Nung nấu vượt ngục

Những ngày tháng 4/1944, Phạm Văn Phu bị chuyển về Nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Lại một lần nữa, ông đối mặt với tiếng khóa lách cách, tiếng cánh cửa sắt rít lên, những bộ mặt hung hãn của những tên cai ngục. Dù khắp mình mẩy thâm tím, đau đớn, đầu váng vất, mắt hoa lên nhưng tinh thần đồng chí Phu lại vô cùng tỉnh táo, bình thản. Ông nhận ra những gương mặt thân quen của các đồng chí đã từng hoạt động với ông, trong đó có đồng chí Trần Đăng Ninh cũng bị giam ở đây.  

1.jpg -0
Gia đình Thiếu tướng Trần Tử Bình tại nơi trưng bày cửa cống ngầm trước sân trại J trong Di tích Nhà tù hỏa Lò, là nơi đồng chí Trần Tử Bình và hơn 100 tù chính trị vượt ngục tháng 3/1945

Tại Hỏa Lò, đồng chí Phu được các bạn tù thay nhau chăm sóc, nhường thức ăn để bồi dưỡng sức khỏe. Nhờ có thuốc men anh em dành dụm, cất giấu được mà sức khỏe của ông dần khá hơn. Ông được bầu làm Trưởng ban sinh hoạt - một tổ chức hoạt động công khai của tù chính trị, do các đồng chí trong Đảng bí mật chỉ đạo để giao dịch, đấu tranh công khai với địch trong nhà tù.

Đồng chí Phu đã tranh thủ mọi tình huống để truyền đạt lại những hiểu biết mới mẻ của mình cho các bạn tù. Vấn đề vượt ngục vốn nung nấu từ lâu nay lại càng trở nên cấp bách. Rồi thời khắc mang tính bước ngoặt đã đến. Đó là một tối đầu tháng 3/1945, đèn điện trong nhà giam bỗng phụt tắt, tiếng súng nổ ran, tiếng chân người huỳnh huỵch phía ngoài. Tên giám ngục hốt hoảng: “Nhật… Nhật nó đánh”. Anh em tù xôn xao: “Nhật, Pháp đánh nhau rồi !”. Dự liệu về một ngày Nhật hất cẳng Pháp để độc chiếm Đông Dương của Thường vụ Trung ương cũng đã xảy đến.

Nhật đảo chính Pháp, chiếm quyền quản lý Nhà tù Hỏa Lò nhưng còn chệch choạc, lỏng lẻo. Các chế độ thường lệ như đi tuần, giám thị gọi tên, điểm số tù đều không thấy có. Anh em tù chính trị đều nhận thấy tình trạng hỗn loạn do “thay thầy đổi chủ” là điều kiện vô cùng thuận lợi, phải khẩn trương tìm đường trốn. Để lâu, bọn Nhật vững chân, tổ chức chặt chẽ thì sẽ không còn cơ hội. Họ vắt óc suy tính, căng tai nghe ngóng, căng mắt tìm lối thoát. Một số tìm cách trà trộn sang khu giam tù thường phạm, có người trèo tường thoát. Một số đồng chí nữ trốn được bằng cách thay đổi quần áo rồi đi lẫn vào đám những người bà con tới thăm thân… Tối ngày 11/3, sau khi anh em sắp xếp cho đồng chí Trần Đăng Ninh trèo tường vượt ngục thành công, đồng chí Phu mừng lắm, yên tâm lo cho các đồng chí còn lại…

“Sống thì nhớ, chết thì giỗ cái giờ phút này”

Trong hồi ký “Phú Riềng đỏ”, Thiếu tướng Trần Tử Bình kể chi tiết về cuộc vượt ngục đầy ngoạn mục ở thời điểm “có một không hai” ấy: “Tôi bóp óc tính toán. Hàng chục biện pháp vượt ngục khác nhau cùng hàng chục tình huống và cách xử trí cứ như quấn lấy óc tôi. Trời sáng nhanh quá, mải suy nghĩ, lại thức trắng đêm nữa rồi! Tôi vùng ngồi dậy, trong đầu vẫn căng thẳng với những tính toán vượt ngục… Tôi liên hệ, hỏi han các đồng chí khác, dòm ngó, ngắm nghía mọi nơi…”. Bỗng đồng chí Phu chú ý đến tấm xi măng hình vuông trong sân nhà giam. Nó cũng như mọi tấm xi măng khác, chỉ khác là có vòng sắt ở giữa. Một luồng ý nghĩ loé lên, đó có thể là chiếc nắp đậy cửa cống ngầm, mà đường cống ngầm sẽ ở đâu đó trong khuôn viên nhà giam. Đó có thể là lối ra hay nhất lúc đó, dù không dễ dàng gì.

Chính những lần bị bắt và lần vượt ngục không thành đã dạy cho Phạm Văn Phu nhiều bài học thực tế. Đã từng có lúc rảnh rỗi, ông nghiên cứu cách mở khóa, mở cổng, dự kiến cả cách ra bằng đường cống. Cũng có lần ông tò mò xem anh em phu cống làm việc, hỏi han rồi quan sát cửa cống, lòng cống… Phu lập tức trao đổi với 3 đồng chí Cử, Vân, Hoà về phương án vượt ngục và cử họ thăm dò đường cống.

Buổi trưa hôm đó, 3 đồng chí lẻn vào sân trại J, dùng nẹp cùm bẩy nắp cống lên. Đồng chí Vân canh gác cho 2 đồng chí Hòa và Cử nhỏ người chui xuống. Một lúc sau, khi nghe các đồng chí báo cáo: “Đi được rồi”, Phạm Văn Phu khẩn trương trù tính kế hoạch cụ thể. Ông nhẩm tính danh sách các đồng chí đi đợt đầu, trong đó có các đồng chí án nặng. Ông giao trách nhiệm cho một đồng chí phụ trách số đảng viên còn lại và tổ chức cho mọi người tiếp tục trốn đợt sau. Quần áo thường dân cho các đồng chí được bí mật chuẩn bị được ít nhiều.

2.jpg -0
Thiếu tướng Trần Tử Bình (bìa trái) cùng các đồng chí tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa tháng 8/1945 gặp mặt tại chiến khu Việt Bắc, năm 1948

“Có lối đi rồi, chuẩn bị thôi”, “Lối cống”, “Lên đèn thì đi”, kế hoạch chuẩn bị vượt ngục của đồng chí Phu được bí mật truyền tới các anh em. Khoảng 4 giờ chiều, tất cả 29 đồng chí được báo đi đợt đầu đã tìm cách có mặt đủ tại trại J - nơi có tường cao 4 phía, kín đáo nên ít ai để ý. Trời đã tối, đèn điện bật lên. “Đến lúc rồi”, đồng chí Phu hạ lệnh mở cống, không quên dặn dò: “Sống thì nhớ, chết thì giỗ cái giờ phút này”. Tổ đầu tiên do đồng chí Phu trực tiếp chỉ huy có 4 đồng chí Hòa, Bình, Vân và Tuân. Cống hẹp, phải cúi rạp người mới chui vừa. Lòng cống tối om, hôi thối, đủ loại rác rưởi. Nhưng không ai còn để ý đến điều đó, ai cũng mải miết di chuyển, có đoạn phải bò. Riêng những bộ quần áo thường dân thì được giữ hết sức cẩn thận, người đội trên đầu, người đeo trên lưng, hoặc buộc sau gáy.

Chừng 20 phút sau thì tới cửa cống. Đồng chí Hòa lấy hết sức nâng nắp cống lên và thoát ra, sau đó lần lượt các anh em lên khỏi cống. Đường phố vắng tanh, nhận ra đó là cửa cống phía sau nhà tù Hoả Lò, gần vườn hoa Mê Linh, cả nhóm nhanh chóng nối gót đi tới vườn hoa và nhảy xuống hầm tránh máy bay ở ngay đó. Trong hầm có vũng nước đọng, họ vớt nước rửa qua quýt cho bớt mùi hôi thối rồi thay quần áo thường dân vào. Những nhóm tiếp theo cũng rải rác chui ra khỏi cống, nhanh chóng tìm đường đi ngay.

Từ ngày 11/3-16/3/1945, hơn 100 đồng chí đã thoát ra ngoài trót lọt bằng cách “độn thổ” qua đường cống ngầm này, tỏa đi khắp nơi, kịp thời tham gia một giai đoạn đấu tranh mới của cách mạng lúc đó đang dâng lên như nước thủy triều. Đó là cuộc vượt ngục lần thứ hai, cũng là cuộc vượt ngục cuối cùng của đồng chí Phạm Văn Phu trong quá trình đấu tranh chống thực dân Pháp.

Sau này, năm 1964, ông đã viết: “Hơn 20 năm trôi qua, tôi vẫn còn nhớ cái ngày lửa cách mạng cháy rừng rực, một số khá đông cán bộ chúng tôi đã thoát ngục Hỏa Lò trở về với phong trào, để cùng toàn dân tiến tới đập vỡ tan tành toàn bộ chế độ tù ngục của kẻ thù. Đó là cuộc vượt ngục lần thứ 2, cuộc vượt ngục cuối cùng mà cũng là cuộc vượt ngục trong điều kiện mới lạ nhất đối với tôi trong quá trình đấu tranh chống thực dân Pháp”.

4.jpg -0
Ông Trần Tử Bình (hàng đầu, bên phải) cùng ông Phan Anh đến thăm mộ liệt sĩ Phạm Hồng Thái ở Quảng Châu, năm 1964

Về với mùa thu Hà Nội

Sau khi vượt ngục, Phạm Văn Phu tìm đường về ngay Vạn Phúc - một làng cách thị xã Hà Đông không xa, để bắt liên lạc được với Xứ ủy và Trung ương. Từ đây ông lấy tên mới là Trần Tử Bình, trở về tham gia xây dựng, củng cố Chiến khu Hòa - Ninh - Thanh (ở các tỉnh Hoà Bình, Ninh Bình, Thanh Hóa). Sau đó trở về là ủy viên thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ, ông đã tham gia lãnh đạo Tổng khởi nghĩa ngày 19/8/1945 ở Hà Nội và một số tỉnh đồng bằng Bắc Bộ.

Ngày 3/91945, một ngày sau khi nước ta tuyên bố độc lập, Trường Quân chính Việt Nam cũng chuẩn bị khai giảng. Trần Tử Bình nhận nhiệm vụ xây dựng trường. Đầu năm 1947, Trần Tử Bình là Phó Bí thư Quân ủy. Thu đông năm 1947, khi giặc Pháp mở cuộc tiến công quy mô lớn lên Việt Bắc, đồng chí Bình được phân công cùng đồng chí Lê Thiết Hùng chỉ huy mặt trận đường số 2 - Sông Lô, lập nên chiến công Sông Lô oanh liệt.

Tháng 1/1948, Trần Tử Bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh ký quyết định phong tặng quân hàm Thiếu tướng. Ông là một trong 11 vị tướng đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa. Cùng thời gian, ông được bổ nhiệm là Phó tổng thanh tra Quân đội. Tháng 2/1951, ông được cử làm đại biểu quân đội dự Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam II tại Việt Bắc.

Từ năm 1950-1956, ông là Chính ủy Trường Sĩ quan Lục quân Việt Nam tại Trung Quốc, góp sức đào tạo hàng ngàn cán bộ để xây dựng và phát triển các đại đoàn chủ lực, mở các chiến dịch tấn công quy mô ngày càng lớn, giành thắng lợi cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Những năm 1956-1958, ông giữ chức vụ Tổng thanh tra quân đội, Phó tổng thanh tra Chính phủ. Năm 1960, ông được bầu là đại biểu quân đội dự Đại hội Đảng III và được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

3.jpg -0
Thiếu tướng Trần Tử Bình (giữa) năm 1952

Từ năm 1959 đến 1967, theo yêu cầu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ông chuyển công tác sang Bộ Ngoại giao và được bổ nhiệm làm Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc. Trong 8 năm làm đại sứ, ông đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và có nhiều đóng góp vào việc xây dựng và phát triển quan hệ hợp tác giữa hai nước Việt - Trung. Với những đóng góp to lớn, Thiếu tướng Trần Tử Bình được tặng thưởng Huân chương Quân công hạng Ba, Huân chương Chiến thắng hạng Nhất; được truy tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất năm 1967, Huân chương Hồ Chí Minh năm 2001 và Huân chương Sao vàng năm 2008.

Tám thập kỷ đã trôi qua, chốn ngục tù tăm tối xưa kia nay đã trở thành Di tích lịch sử Nhà tù Hỏa Lò giữa trung tâm thủ đô, hàng ngày đón rất đông khách tham quan. Cho đến nay, trong Di tích vẫn còn trưng bày cửa cống ngầm trước sân trại J - là nơi đồng chí Trần Tử Bình đã tham gia tổ chức cuộc vượt ngục tháng 3/1945, như một sự nhắc nhớ về tinh thần đoàn kết, đấu tranh bền bỉ của những chiến sĩ Cộng sản kiên trung. Theo chị Nguyễn Thị Bích Thủy - Giám đốc Ban Quản lý di tích Nhà tù Hỏa Lò, tại Di tích vẫn tổ chức các chương trình giao lưu, trưng bày chuyên đề và biểu diễn hoạt cảnh nhằm tái hiện lại phần nào cuộc vượt ngục lịch sử năm 1945, để các thế hệ hôm nay hiểu sâu sắc hơn giá trị của hòa bình, tự do mà các thế hệ đi trước phải đánh đổi bằng cả máu xương và mạng sống.

Huyền Châm (còn tiếp)
.
.