Một lần thưởng thức cháo chua Tây Nguyên
Tùy vào sở thích, món cháo chua của đồng bào Tây Nguyên có thể được nấu từ bắp hoặc gạo trắng. Khi ăn, người ta trộn với rau rừng, cá khô nướng giã nhuyễn với muối ớt xanh hay một số loại gia vị đơn giản khác. Với bà con, đó thực sự là món khoái khẩu, ăn mãi không biết chán...
Đặc sắc Tây Nguyên
Ché rượu cần đã cạn, cuộc vui sắp kết thúc, bạn tôi, Ya Kéo (ngụ thôn Đà Thuận, xã Đà Loan, huyện Đức Trọng), tuyên bố bây giờ mới là lúc để thưởng thức món đặc sản. Vài phút sau, anh bưng từ nhà bếp lên một tô lớn cháo trắng, xuýt xoa nói, tỏ vẻ tiếc nuối: “Mới nấu hai ngày, vẫn chưa ngon nhất đâu. Nhưng thôi, cứ thưởng thức đi đã...”. Tô cháo lạnh ngắt được Ya Kéo trang trọng đặt giữa bàn nhậu. Sự nổi tiếng của loại thực phẩm này của bà con chắc hẳn nhiều người đã biết. Thế nhưng, tận mắt trông thấy và có dịp được thưởng thức, với tôi đây lại là lần đầu.
Sự hiếu khách của đồng bào Churu được thể hiện qua cử chỉ sốt sắng của Ya Kéo. Là khách phương xa, tôi vinh dự được anh múc cho chén cháo đầu tiên. Trao vào tay tôi, Ya Kéo không quên nhắc nhở: “Ăn ngay đi, ngon lắm đấy!.. Say rượu húp một chén là tỉnh người ngay!.. Ngày nào nhậu say mình cũng phải có món này mới chịu được!..”.

Bạn nhiệt tình như thế, ai nỡ lòng nào từ chối dù bụng tôi chẳng còn chỗ chứa. Bưng trên tay chén cháo chua đặc sản, tôi kéo một hơi mạnh, nghe cái “sụp”. Còn chưa kịp nuốt, Ya Kéo dồn dập hỏi: “Đã lắm đúng không? Thế chứ! Tỉnh ngay thôi mà...”. Anh nói với giọng rất tự hào về món cháo chua truyền thống của dân tộc mình. Thực tế là, cháo chua ăn… không dễ. Đúng như tên gọi, vị chua vẫn chủ đạo, nhạt nhẽo và không có hương vị đặc biệt, ngoại trừ mùi của cơm gạo đang kỳ chớm lên men. Thấy tôi có vẻ căng thẳng, lóng ngóng chưa biết xử lý thế nào với ngụm cháo quá cỡ vừa nuốt xuống.
Ya Kéo cười giòn, nói: “Chưa quen à? Vậy thì thêm thứ này vào...”. Anh đon đả múc món thịt heo giã muối ớt, cho vào chén cháo của tôi, trộn đều và thúc giục: “Ăn đi!”. Lần này, chất lượng món cháo được cải thiện hơn nhiều. Vị mặn của muối, cay nồng của ớt, béo ngậy của thịt heo giã nhuyễn giúp trung hòa với vị chua của món cháo trắng để lâu. Khi tôi đã húp được mấy ngụn cháo, Ya Kéo mới yên lòng. Anh tự múc cho mình một chén cháo trắng, nâng lên thưởng thức với vẻ mặt hết sức thỏa mãn.
“Mình ăn món này từ nhỏ, giờ không có là không chịu được. Cha mẹ mình, mấy đứa em của mình cũng thế. Nhà mình ăn cháo chua, ít ăn cơm lắm... Chỉ có đứa cháu của mình là ăn cơm thôi vì nó học ở trường mẫu giáo, ăn cơm với cô quen rồi”, chàng thanh niên người Churu chia sẻ.
Không rõ món cháo chua của đồng bào Churu có từ khi nào, Ya Kéo không biết, hỏi bố mẹ Ya Kéo cũng không ai biết. Người Churu nói rằng, từ nhỏ họ đã được cha mẹ nấu cho ăn. Thế hệ trước truyền lại, thế hệ sau lưu giữ. Cứ thế, họ nấu và ăn, gìn giữ vị cháo chua, tự hào là món khoái khẩu của dân tộc mình. Hương vị của món ăn đặc biệt này đã ngấm vào vị giác, dòng máu và tiềm thức của từng người Churu như một sự nhắc nhở để nhớ về cội nguồn. Đồng bào Churu vẫn tin rằng, chính Yàng (vị thần) đã chỉ dạy cho tổ tiên của họ biết cách để nấu ra món cháo ăn hoài không biết chán.

Món cháo chua của người Churu được nấu từ gạo trắng trồng ở địa phương. Cháo chua chế biến không khó. Tùy vào sở thích, khẩu vị của người thưởng thức, khi nấu có thể ninh cho hạt gạo chín nhừ, nhuyễn hoặc gạo vừa chín tới mà không nêm bất cứ gia vị nào, kể cả muối. Cháo chín, bà con đổ ngay vào những trái bầu đã được làm rỗng ruột và đánh rửa sạch sẽ. Nắp trái bầu đựng cháo được cố định bằng túi nilon và dây cao su. Tuyệt đối không được để hở, cháo sẽ bị hư, thối. Tùy vào thời tiết, món cháo chua có thể được gia chủ đem ra sử dụng sau hai ngày mà không cần phải nấu lại. Nếu trời oi nồng, nắng nóng, cháo chua phải được sử dụng hết trong vòng một tuần. Sau thời gian này, cháo lên men mạnh, quá chua và dẫn tới hư hỏng.
Đi tìm nguồn gốc món cháo chua
Cháo chua cũng là món ăn hấp dẫn của đồng bào K’ho ở huyện Lạc Dương. So với người Churu, nguyên liệu dùng để nấu cháo của người K’ho lại khác. Những gia đình sinh sống dưới chân dãy Bidoup - Núi Bà, thuộc xã Đạ Sar, Đạ Nhim, Đạ Chais lại dùng bắp để nấu cháo chua. Điều này xuất phát từ tập quán canh tác nông nghiệp của cư dân bản địa. Nếu như người Churu sinh sống ở các huyện Đức Trọng, Đơn Dương, Di Linh… nơi có địa hình thấp hơn, phù hợp với truyền thống sản xuất lúa nước, món ăn được chế biến từ gạo là chủ đạo thì người K’ho sinh sống ở huyện Lạc Dương, nơi có địa hình cao và không có ruộng, trước đây bắp là cây nông nghiệp chính. Vì thế, bà con thường dùng sản phẩm này để nấu cháo chua. Trước khi nấu, bắp được đem ra xay nhỏ nhưng không được mịn thành bột.
Quy trình nấu cháo chua từ hạt bắp của người K’ho tương đối giống với người Churu nấu cháo chua từ gạo trắng. Tùy vào sở thích của mỗi người, khi ăn cháo chua, người K’ho có thể “ăn thô” mà không cần cho thêm gia vị. Nhưng thông thường, để kích thích vị giác với hương vị đậm đà hơn, người ta ăn kèm với rau xào, cá khô nướng đã giã nhuyễn với muối ớt xanh. Với người K’ho, món cháo chua nấu từ hạt bắp hấp dẫn tới mức bà Cil Pam K Phương, trưởng thôn Đa Ra Hoa, xã Đa Nhim, huyện Lạc Dương cho biết: “Vài tuần mà không được ăn cháo chua là không chịu được. Thèm lắm!”.
Tới nay, vẫn chưa có cách lý giải nào về nguồn gốc cháo chua của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên. Tuy nhiên, theo tìm hiểu của chúng tôi, loại thực phẩm này xuất phát từ tập quán sản xuất nông nghiệp của bà con. Người K’ho ở phía Bắc tỉnh Lâm Đồng gồm các nhánh là Cil, Lạch, vốn sống ở nơi có địa hình cao, không có ruộng, tất nhiên họ không thể sản xuất lúa nước. Trong quá khứ, bà con trồng bắp, khoai, sắn (mì) để duy trì nguồn lương thực tự cấp tự túc. Trong khi đó, người K’ho nhánh Sre và người Churu, Châu Mạ sinh sống ở phía Nam tỉnh Lâm Đồng, nơi có địa hình thấp hơn và nhiều ruộng, cây trồng chủ đạo để duy trì nguồn lương thực là lúa nước.
Các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên thường có một điểm tương đồng về thời gian làm việc trong ngày. Họ làm việc khá trễ và kết thúc sớm. Hằng ngày, thường bắt đầu công việc khoảng 9 giờ sáng và kết thúc trước 16 chiều. Khi làm việc, bà con không có thói quen nghỉ trưa mà làm liền một mạch. Điều này có nghĩa, cao điểm nắng nóng nhất trong ngày ở Tây Nguyên được bà con chọn làm thời gian lao động. Khi trời chuyển mát, mọi người rủ nhau về nhà nghỉ ngơi. Nghe có vẻ rất phi lý, ngược hoàn toàn với quan điểm về thời gian lao động và nghỉ ngơi của người Kinh và một số dân tộc khác. Tuy nhiên, thực tế là các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên không có sự lựa chọn nào hơn.


Vùng sản xuất nông nghiệp của các dân tộc thiểu số nơi đây thường rộng lớn và cách xa nơi ở. Địa hình đồi núi hiểm trở, việc di chuyển của họ chủ yếu là đi bộ và dùng gùi để vận chuyển nông sản sau khi thu hoạch. Do đi bộ nên thời gian di chuyển từ nhà tới nơi canh tác nông nghiệp phải mất cả tiếng. Tới nơi làm việc, trời đã nắng nóng. Đến lúc trời mát cũng là thời điểm phải trở về nhà trước khi bóng tối ập xuống, thú dữ hiện ra rình rập. Lối làm việc trên được truyền qua nhiều đời. Ngày nay, những người dân tộc thiểu số lớn tuổi trên vùng đất này vẫn còn giữ thói quen chọn thời điểm nắng nóng nhất trong ngày để đi làm. Điều này cũng lý giải vì sao các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên thường có nước da đen hơn các dân tộc khác.
Như đã đề cập ở trên, các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên thường chọn thời gian làm việc ngoài trời lúc nắng nóng, nhiệt độ cao nhất trong ngày. Sản xuất nông nghiệp, lao động chân tay nặng nhọc với những công cụ thô sơ khiến người ta rất dễ mệt mỏi, kiệt sức, mất nước và khát nước. Loại món ăn vừa làm no bụng lúc đói, thỏa mãn được cơn khát nước giữa trưa nắng; chế biến đơn giản, dễ ăn, tiện lợi mà lại bảo quản được lâu, nhất định phải là cháo. Vì thế, trước khi lên rẫy trỉa bắp, đào mì, ra đồng trồng cây lúa nước, bà con thường dậy sớm để nấu cháo, đổ vào các trái bầu cất trữ, đem theo ăn dần. Chỉ cần ít gạo hoặc bắp, nấu một lần mà dùng được cả tuần, còn gì tiện lợi hơn món cháo chua.
Riêng các dân tộc thiểu số ở Nam Tây Nguyên, những lần đi làm xa hay công việc mùa màng nặng nhọc, món cháo chua không chỉ làm ấm bụng lúc đói mà còn vực dậy tinh thần, con người phấn chấn, giúp làm việc hiệu quả hơn và nhất là thỏa mãn cơn thèm vì đó là món khoái khẩu truyền đời. Đó còn là món ăn bổ dưỡng, có vị chua xen vị ngọt, lại có mùi đậm đà của men rượu, kích thích cảm giác. Nó cũng được dùng thay cho nước uống, xua đi những cơn khát khi thời tiết nắng nóng, chống được cảm nắng, tăng sức đề kháng cho cơ thể khiến con người có sức khỏe dẻo dai, chống lại bệnh tật mà đối diện với cái nắng, cái gió khắc nghiệt trên miền đất Tây Nguyên.