Bài cuối: Một gia đình đặc biệt
Không chỉ Trần Tử Bình có cuộc đời đặc biệt, mà đồng chí Nguyễn Thị Hưng - người bạn đời của ông cũng vậy. Họ là “đồng chí chồng - đồng chí vợ” gắn bó với nhau và cùng vượt qua những sự kiện quan trọng của một giai đoạn cách mạng hào hùng nhất trong lịch sử dân tộc.
Người vợ kiên trung
Người bạn đời của Thiếu tướng Trần Tử Bình tên là Nguyễn Thị Ức, sinh năm 1920 tại thôn Hòa, xã Cấp Tiến, huyện Hưng Nhân, tỉnh Thái Bình (cũ) trong một gia đình trung nông. Năm 1936, khi mới 16 tuổi, bà đã tích cực tham gia các hoạt động của hội Ái Hữu trong Mặt trận Dân chủ tại quê nhà. Năm 1939, bà được kết nạp vào Đảng Cộng sản khi mới 19 tuổi. Ở tuổi thanh niên, Nguyễn Thị Ức xinh gái, khỏe mạnh, nhanh nhẹn và tự tin, nhiều gia đình khá giả đã đánh tiếng xin đón bà về làm dâu.
Nhưng Nguyễn Thị Ức là người tiến bộ, đã được giác ngộ nên muốn được giải phóng khỏi những ràng buộc phong kiến nặng nề trong khuôn khổ xã hội làng xã nên đã đề nghị tổ chức cho thoát ly. Đầu năm 1940, bà bí mật thoát ly gia đình sang hoạt động tại Hà Nam, Ninh Bình và trở thành cán bộ cách mạng. Năm 1940 Trần Tử Bình tham gia Xứ ủy Bắc Kỳ, cuối năm 1941 được Xứ ủy phân công phụ trách Liên khu C gồm các tỉnh Hà Nam, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình và họ đã gặp nhau.
Lúc ấy, với Nguyễn Thị Ức - một nữ đảng viên trẻ mới thoát ly thì Trần Tử Bình vừa là thượng cấp, vừa là người anh lớn mà bà khâm phục vì ông có một quá trình đấu tranh cách mạng rất oanh liệt. Trần Tử Bình truyền lại cho Nguyễn Thị Ức nhiều kinh nghiệm quý báu tích lũy được trong quá trình đấu tranh. Cuộc sống của những chiến sĩ cách mạng thời kỳ bí mật, ngoài việc ngày đêm bám sát phong trào, củng cố cơ sở, phát triển Đảng thì còn luôn phải đối phó chống lại mọi âm mưu đàn áp, truy bắt của kẻ thù để tự bảo vệ mình. Trong quá trình hoạt động bí mật, Nguyễn Thị Ức bị đuổi bắt vài lần, bị mật báo cũng không ít, nhưng dường như sự mẫn cảm bẩm sinh đã giúp bà thoát khỏi những nguy hiểm cận kề.
Trần Tử Bình hơn Nguyễn Thị Ức 13 tuổi. Trong quá trình hoạt động cách mạng, họ dần có tình cảm với nhau. Vào một ngày cuối năm 1942, Trần Tử Bình nói một câu thật mộc mạc: “Chị Tân, tôi với chị kết hợp nhé” (Tân là tên của bà Ức khi đi hoạt động cách mạng). Lời “cầu hôn” đặc biệt ấy đã tạo nên câu chuyện tình yêu đặc biệt. Một trong những người bạn thân thiết chứng kiến, vun vào trong mối nhân duyên đó là ông Hạ Bá Cang, tức đồng chí Hoàng Quốc Việt. Trong những năm tháng đó, mật thám Pháp và bọn tay sai treo thưởng rất lớn cho việc tố giác, bắt được ông Hoàng Quốc Việt, Phạm Văn Phu. Trong danh sách truy nã có cả cái tên Nguyễn Thị Ức. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo, tình yêu của họ chỉ được đảm bảo bằng sự thông cảm, luôn hướng về nhau, luôn lo lắng cho sự an toàn của nhau. Hai người nay đây mai đó ít khi có được những giây phút quý báu bên nhau của những người đang yêu bình thường khác.
Năm 1943, Trần Tử Bình bị mật thám Pháp bắt. Bà Ức chỉ biết được tin ông Bình bị đưa về Ninh Bình, Hà Nam rồi bị kết án 20 năm tù. Thời gian lặng lẽ trôi đi, bà Ức nén nỗi lo lắng, đau thương để lao vào công tác. Đến năm 1945, Trần Tử Bình vượt ngục Hỏa Lò, gặp lại người yêu sau hơn một năm xa cách. Lúc đó bà Ức khóc rất nhiều, vừa mừng vừa tủi khi gặp lại người yêu từ cõi chết trở về. Tình yêu đặc biệt của họ đã vượt qua thử thách, khó khăn lại càng thêm bền chặt. Sự chia cách, tù đày, hiểm nguy cũng không ngăn cản được lời cầu hôn đặc biệt hơn một năm về trước trở thành hiện thực. Với sự chứng kiến của một số bạn bè, đồng chí gần gũi, họ tuyên bố thành vợ chồng. Sự kiện quan trọng này được tổ chức đơn giản tại một gia đình cơ sở ở Ninh Bình vào cuối tháng 3/1945.
Ngay sau ngày cưới, họ được ở bên nhau trọn vẹn 3 ngày. Do yêu cầu của phong trào cách mạng, họ phải xa nhau để làm nhiệm vụ chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa. Tháng 5/1945, Trần Tử Bình về Thường vụ Xứ ủy, vợ ông được điều động sang bổ sung cho Hưng Yên.
Tại Hưng Yên, Trần Tử Bình đã đưa vợ về chào cha mẹ lần đầu tiên tại làng Phúc Tá, huyện Ân Thi trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Người con dâu gặp bố mẹ chồng đúng vào những ngày giáp hạt năm Ất Dậu, khi cái đói đe dọa từng gia đình. Trong túp lều tranh lụp xụp, bố mẹ chồng bà sống nghèo khổ, ăn không đủ no, áo không đủ mặc. Nhưng trên gương mặt đen sạm và hốc hác vì đói của cha mẹ vẫn ánh lên niềm vui khi gặp mặt con dâu.

Sau này, trong câu chuyện kể, bà Hưng nhớ lại rằng trong bữa cơm gặp mặt ấy, cả nhà cố ý nhường cho bà chỗ cháo đặc với ít khoai độn. Cuộc gặp gỡ đầu tiên đó để lại những ấn tượng tốt đẹp, sự xót xa thương cảm cho cả bậc sinh thành và người con dâu mới. Khi ấy, bà Hưng báo tin mình đã có thai. Cả hai vợ chồng Trần Tử Bình rất mừng, cùng vững tin vào tương lai không xa đứa con đầu lòng sẽ không còn phải sống kiếp nô lệ.
Trong đêm đó, Trần Tử Bình dặn vợ cần chuẩn bị gấp việc cướp kho thóc của Nhật chia cho dân để cứu đói. Bà Hưng coi lời dặn của chồng như chỉ thị của Xứ ủy. Bà đã cùng các đồng chí của mình lãnh đạo nhân dân phá kho thóc ở Kim Động để chia cho người dân. Khí thế cách mạng tại Hưng Yên lên rất cao, nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào Việt Minh. Tháng 8/1945, ông Bình tham gia lãnh đạo tổng khởi nghĩa tại Hà Nội, còn bà Hưng lúc ấy bụng vượt mặt vẫn tham gia lãnh đạo giành chính quyền tại Kim Động, Hưng Yên. Sau khi lãnh đạo khởi nghĩa thành công, bà lấy tên là Hưng để kỷ niệm những ngày hoạt động sôi nổi ở Hưng Yên.
Một gia đình đông con
Chuyện về gia đình đông con có nhiều nét đặc biệt của Thiếu tướng Trần Tử Bình do chính ông Trần Việt Trung, con trai út của Tướng Bình kể lại. Tháng 11/1945, bà Hưng sinh con gái đầu lòng trong sự giúp đỡ, đùm bọc của ông bà Tám - một gia đình là cơ sở cách mạng ở Hưng Yên. Bé gái được đặt tên là Yên Hồng, mang ý nghĩa ngọn cờ hồng bay trên đất Hưng Yên.
Bé gái Yên Hồng chỉ được bú mẹ 10 ngày đầu thì bà Hưng phải đi làm nhiệm vụ, khi mà chính quyền non trẻ rất cần bà. Người mẹ trẻ nuốt nước mắt gửi lại con cho vợ chồng ông bà Tám nuôi nấng. Bà Hưng về Tỉnh ủy làm Chủ tịch Phụ nữ, ông Bình được phân công xây dựng Trường quân chính Việt Nam. Mãi 9 năm sau, con gái Yên Hồng mới được cha Trần Tử Bình quay về đón để đi học.
Sau con gái Yên Hồng, ông bà Bình có với nhau thêm 7 người con nữa, tổng cộng là 8 người con, 2 gái, 6 trai. Con trai cả của ông Bình là Trần Kháng Chiến đã từng chia sẻ: “Cha mẹ tôi sinh được 8 người con. Bạn bè thân thiết của cha mẹ khi đến chơi khó nhớ một lúc hết tên của cả 8 đứa”. Ông bà đặt tên cho các con đều gắn với các giai đoạn của đất nước, những kỷ niệm trong quá trình hoạt động cách mạng và công tác sau này: Yên Hồng, Kháng Chiến, Thắng Lợi, Kiến Quốc, Thành Công, Hữu Nghị, Hạnh Phúc và Việt Trung. Đặc biệt, vì lấy tên là Trần Tử Bình nên cả 8 người con của ông Bình đều đặt theo họ Trần. Tuy phải sống xa nhau do nhiệm vụ công tác, nhưng ông bà Bình luôn yêu thương nhau, chia sẻ và thông cảm cho nhau. Tình yêu đó chính là nền tảng để tình cảm gia đình luôn bền chặt.
Chỉ tiếc rằng ông Bình mất sớm, khi mà các con còn nhỏ. Năm 1967, khi ấy ông Bình đang là Đại sứ đặc mệnh toàn quyền Việt Nam tại Trung Quốc về nước họp Trung ương gấp. Sau mấy ngày họp hành liên miên, ông về nghỉ tại nhà riêng ở số 99 Trần Hưng Đạo và đột ngột lâm bệnh trong tiết trời giá lạnh của ngày cuối năm. Ban Bảo vệ sức khỏe cho xe cấp cứu đưa ông vào Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô.

Chiều 30 Tết, con gái Hạnh Phúc được theo mẹ vào thăm cha. Và chiều hôm ấy, theo lời con gái Hạnh Phúc lúc ấy 11 tuổi, Bác Hồ đã đến thăm Trần Tử Bình. Trời lạnh mà Bác vẫn chỉ khoác bộ đại cán đã bạc màu, quanh cổ quấn chiếc khăn len. Bác hỏi han tình hình sức khỏe của ông Bình, còn tặng quà cho người ốm. Đó là mấy quả táo Trung Quốc chín đỏ, thơm ngon mà đồng chí Chu Ân Lai gửi tặng Bác. Lúc ấy, chỉ còn vài giờ nữa là sang năm mới, Bác chúc ông Bình mau khỏe, chúc cả nhà một năm mới hạnh phúc.
Chẳng ngờ được, 3 ngày sau ông Bình bất ngờ chuyển bệnh và vội vã ra đi. Giữa lúc cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta ở cả hai miền đang chuyển sang giai đoạn gay go, quyết liệt, đòi hỏi có nhiều cán bộ có đức có tài trên các lĩnh vực chính trị, quân sự, kinh tế, ngoại giao, thì sự ra đi đột ngột của Thiếu tướng Trần Tử Bình là một nỗi mất mát lớn. “Ngay trong ngày mùng 3 Tết, lễ tang được tổ chức tại Câu lạc bộ Quân đội. Các bác các chú, bạn bè của cha mẹ đến vĩnh biệt rất đông. Tuy còn bé nhưng tôi không sao quên được hình ảnh Bác đến cúi đầu mặc niệm trước linh cữu cha tôi rồi cảm động ôm lấy mẹ tôi vỗ về an ủi”, con gái Hạnh Phúc nhớ lại.

Sau khi ông Bình mất năm 1967 thì đến năm 1968 bà Hưng lâm trọng bệnh, được đưa sang Bắc Kinh chữa trị. Bằng nghị lực phi thường, bà đã vượt qua bệnh tật, tiếp tục thay ông gánh vác việc nuôi dạy các con khôn lớn, trưởng thành trong giai đoạn đất nước còn chiến tranh. Bà vẫn tiếp tục công tác ở Bộ Ngoại thương đến khi về hưu năm 1978. Bà được tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng 2 năm 1987. Bà mất năm 1993 ở tuổi 73. 8 người con của ông bà Bình đều một lòng tôn kính, tự hào về cha mẹ, đều sống đúng với điều cha mẹ dạy dỗ: sống có ích, trung thực, chân thành và tự trọng.