Câu hỏi chưa có lời đáp về mạng gián điệp Prosper

Thứ Hai, 17/07/2023, 20:48

Ngày 6/6/1944, hàng trăm ngàn binh lính Đồng Minh, máy bay, tàu các loại đã khởi hành từ các căn cứ ở Anh trực chỉ bờ biển nước Pháp trong cuộc đổ bộ vĩ đại nhất mọi thời đại. Một phần lớn của kế hoạch dựa trên một chiến dịch đánh lừa tinh vi, đa diện nhằm lừa quân Đức về một cuộc đổ bộ thật sự sắp diễn ra.

Các quan chức tình báo Đồng Minh đã thuyết phục quân Đức rằng cuộc đổ bộ sẽ diễn ra tại Pas de Calais (cách Normandy khoảng 50 dặm về hương Đông Bắc). Năm 1943, một năm trước sự kiện D-Day, các cơ quan tình báo Anh đã khởi xướng một phức hợp tinh vi tập trung ở Pháp nhằm đánh lừa người Đức tin rằng cuộc đổ bộ sẽ diễn ra vào mùa Xuân, Hè, nhắm vào Tây Bắc nước Pháp. Tên mã của những người tham gia vào canh bạc đánh lừa là “Prosper”. Tuy nhiên, tại thời điểm chiến tranh kết thúc, toàn bộ mạng lưới Prosper lớp bị giết, lớp bị bắt sống do nằm trong âm mưu đã vạch trước hoặc ngẫu nhiên.

“Đốt cháy châu Âu”

Người khởi xướng sứ mệnh Prosper là Cục chiến dịch đặc biệt (SOE) của Anh. Nhiệm vụ chính yếu của SOE là hỗ trợ lực lượng kháng chiến tại Châu Âu bị chiếm đóng bằng phương thức ám sát, tấn công du kích, và công phá vào những mục tiêu quân sự và công nghiệp Đức. SOE được Thủ tướng Winston Churchill giao trọng trách, người đã ban lệnh hành quân để “đốt cháy Châu Âu”. Một sư đoàn đặc biệt của tình báo Anh có tên gọi là Phân đội F (phân đội Pháp) đã được thành lập và hỗ trợ các tổ chức kháng chiến. Khi chiến tranh lên cao trào, hơn 80 tổ chức kháng chiến độc lập đã được thành lập tại Pháp, từ những ngọn đồi ở Pyrenees cho đến các con phố ở Paris và “Vạn lý trường thành Đại Tây Dương” của Adolf Hitler. Prosper được lãnh đạo bởi ông Francis Suttill, là một trong những chủ chốt của tổ chức kháng chiến đó.

Câu hỏi chưa có lời đáp về mạng gián điệp Prosper -0
Sĩ quan quân đội Pháp Henri Dericourt. Ảnh nguồn: National Archives.

Francis Suttill là người Pháp gốc Anh, sinh ở Pháp năm 1910. Trước chiến tranh, ông Suttill hành nghề luật sư, ông từng phục vụ trong Trung đoàn Đông Surrey của quân đội Anh. Khi chiến tranh bắt đầu, Suttill được đưa vào Phân đội F và được giao phụ trách mạng lưới Prosper với nhiều chân rết khắp nước Pháp. Trước khi được gửi ra chiến trường, Suttill mới có 7 tháng huấn luyện. Nhiệm vụ chính của Suttill là thành lập tổ chức kháng chiến mật ở miền Bắc, Nam và Đông Pháp bao gồm cả Paris vốn khi đó đã rơi vào tay quân Đức. Bí danh của Suttill là Francois Despree, kinh doanh hàng nông sản. Danh tính mới của Suttill viết rằng ông sinh ở Lille năm 1910, có cha mẹ là người gốc Pháp và Bỉ. Phân đội F cũng trao cho Suttill một mã mật, Prosper, lấy tên từ một tác giả sống vào thế kỷ 15.

Henri Dericourt và quan hệ với Đức Quốc xã

Cơ sở của Phân đội F đặt tại nông trang Gibraltar, Tempsford, ở Buckinghamshire, cách London khoảng 40 dặm. Ngày 1/10/1942, Suttill đến căn cứ không quân Manston để thực hiện chuyến bay mật đến Pháp. Đồng hành cùng với Suttill là Maurice Buckmaster, chỉ huy Phân đội F. Buckmaster có mặt ở đó để tiễn đặc vụ chính của mình. Buckmaster làm việc cật lực để thành lập phương thức hoạt động và hậu cần của Phân đội F, bao gồm nhiều dạng sân bay ở Anh nơi các phi công và kiểm soát viên mặt đất dày dạn kinh nghiệm sẽ đảm bảo rằng các đặc vụ đã bí mật ra, vào nước Pháp. Những chuyến bay bí mật của Không lực Hoàng gia Anh (RAF) cũng mang thư cho các đặc vụ của mình trên khắp đất Pháp. Một trong những kiểm soát mặt đất tài năng nhất là một sĩ quan quân đội Pháp tên là Henri Dericourt. Công việc chính của Dericourt trong kế hoạch Prosper là kiểm soát viên mọi hoạt động giao thông hàng không vào lãnh thổ Pháp và các khu vực lân cận.

 Dericourt đóng một vai trò gây tranh cãi trong lịch sử của mạng lưới Prosper. Đêm tháng 10/1942, Suttill nhảy dù xuống nước Pháp bị chiếm đóng, hạ cánh gần Vendome, cách Paris khoảng 110 dặm. Thời gian trôi nhanh, Suttill đã chiêu nạp một lượng lớn thành viên. Suttill đặt nhiều bí danh hoạt động cho các đồng đội gồm Physician, Donkeyman, Bricklayer, Chestnut, Priest, Cinema và Orator. Tới năm 1943, Suttill đã chiêu mộ hơn 1 vạn mật vụ trên khắp nước Pháp. Những người này đã điều hành nhiều đường dây thư tín bí mật, các hoạt động gián điệp, các phòng khám y tế, cùng các hoạt động không dây chuyển về hậu cứ Anh. Cách mà Dericourt thu hút sự chú ý của Buckmaster từ Phân đội F thực sự gây ra nhiều tranh cãi. Phần đông các sử gia cho rằng chính Thiếu tướng không quân Archibald Boyle đã giới thiệu Dericourt, ông Boyle cũng là người đứng đầu khối tình báo của Bộ Không quân.

Boyle có nghe tin về Dericourt từ Claude Dansey - một người bị coi thường trong bộ máy tình báo Anh do chính sách tàn bạo trong hoạt động gián điệp. Dansey là phó giám đốc của SIS (Cục tình báo mật của Anh) trong thời chiến. Dansey kiểm soát hàng ngàn điệp viên trên khắp Châu Âu và là người đứng đầu chiến dịch “Z” mà ngay cả SIS cũng không hay biết. Điều nên biết, vai trò của Dericourt trong Phân đội F là xâm nhập vào trụ sở phản gián Đức ở Paris. Một sự thật mà ngay cả các thành viên chóp bu của tình báo Anh cũng không hề biết rằng Dericourt có quan hệ kín với Hans Boemelburg - giám đốc phản gián của Đức.

Cài cắm mạng lưới

Đêm 22 rạng ngày 23/1/1943, Henri Dericourt nhảy dù xuống nước Pháp. Ông đến Marseille để đón vợ. Từ thành phố này, họ đến thủ đô Paris và thuê phòng trong khách sạn Bristol - nơi vốn từng là “hang ổ” của nhiều đặc vụ SD. Quả kỳ lạ khi sự hiện diện của Dericourt ngay tại trung tâm các hoạt động của SD đã không bị phát hiện và hai vợ chồng ông đã ở an toàn trong khách sạn này. Việc người Đức không hành động để chống lại thủ lĩnh các hoạt động mật nổi tiếng của Anh làm dấy lên câu hỏi ngờ vực: Tại sao người Đức cho phép một điệp viên Anh ngụ an toàn ngay giữa chiến dịch của chính họ? Những báo cáo điệp viên sau chiến tranh đã hé lộ rằng Dericourt thực sự đã tiếp kiến Hans Boemelburg trong lúc đang ở Paris và hé lộ cho người này về nhiệm vụ thực sự của mình. Dericourt cũng trưng ra địa điểm của 14 sân bay bí mật để từ đó có thể thả người và hàng hóa trên đất Pháp.

Trong lúc Dericourt thực hiện các dàn xếp mật cho các hoạt động đổ bộ cho các điệp viên của Phân đội F (SOE) thì việc sửa soạn cài cắm các thành viên khác của mạng lưới Prosper đã thật sự bắt đầu. Một trong những điệp viên đầu tiên nhảy dù xuống nước Pháp là Jack Agazarian, người làm việc cho SOE. Agazarian đến Paris vào tháng 12/1942. Agazarian làm việc với Henri Dericourt để tổ chức các sân bay mật mà từ đó phi công RAF sẽ hạ cánh trong các nhiệm vụ mật của họ. Thời gian trôi đi, Agazarian bắt đầu hồ nghi lòng trung thành của Dericourt và miễn cưỡng làm cho London nhận ra sự nghi ngờ của mình. Suttill làm việc chặt chẽ với Agazarian, và thông qua các nguồn tin thu thập từ các điệp viên khác ở Paris, dần dà ông tin rằng danh tính người bạn của mình (Dericourt) đã bị lộ. Ngày 16/6/1943, Agazarian quay lại London để báo cáo tiến độ hoạt động của Prosper ở Paris.

Ở London, Agazarian hội kiến với Maurice Buckmaster và Nicholas Bodington (nguyên phóng viên của hãng tin Reuters, người đã phục vụ dưới trướng của Buckmaster suốt thời chiến). Trong các cuộc họp của họ, hai người Bodington - Buckmaster từ chối coi trọng những lời cảnh báo của Agazarian bất chấp một thực tế rằng sau chiến tranh, Bodington đã viết thư nói về những mối quan hệ lạ của Dericourt với người Đức. Một bức thư trong số đó có đoạn viết: “Chúng tôi biết ông ấy liên lạc với bọn Đức, cũng như làm cách nào và tại sao có kiểu quan hệ đó”.

Câu hỏi chưa có lời đáp về mạng gián điệp Prosper -0
Nhà điều hành không dây Noor Inayat Khan. (Ảnh: National Archives).

Những anh hùng của Prosper

Ngày 22/7/1943, cả Bodington và Agazarian cùng quay lại Pháp đã hội kiến với Suttill và các điệp viên của ông. Cuộc họp đã được sắp xếp bởi một thành viên khác của mạng lưới Prosper: Trung úy bay Gilbert Norman (bí danh Archambault), một nhà điều hành không dây. Tuy nhiên chỉ có Agazarian gặp Norman. Khi cuộc họp đang diễn ra, cảnh sát Đức đã đập cửa phòng và bắt giữ cả Norman lẫn Agazarian. Agazarian bị giải tới nhà tù Fresnes nơi ông bị tra tấn suốt 6 tháng. Sau đó, Agazarian bị chuyển tới trại tập trung Flossenburg và bị xử tử vào ngày 29/3/1945. Một nạn nhân khác trong nhóm của Suttill là một phụ nữ tên là Andree Borrel. Borrel là người Pháp, bà hỗ trợ các phi công Đồng Minh bị bắn rơi lúc vượt biên Tây Ban Nha và đến Anh an toàn. Tháng 5/1942, Borrel tham gia Phân đội F.

Lần đầu tiên, vào đêm ngày 24/9/1942, Borrel được chở tới Pháp. Đồng hành với bà là Lise’ de Baissac (bí danh Odile) người đã làm việc cho Phân đội Poiters ở Pháp. Cả Lise’ và người em trai của bà là Claude (cũng là một điệp viên) được đưa về London an toàn trong tháng 8/1943. Borrel chẳng thể nào biết rằng mọi hành tung của mình đều bị người Đức theo dõi. Tháng 5/1944, Borrel cùng với 5 phụ nữ khác của quân kháng chiến Odette Sansom, Veral Leigh, Diana Rowden, Yolande Marie Beekman, Zoe Damerment và Eliane Brown-Bartoli Plewman) bị giải đến nhà ngục tại Karlsruhe. Sau đó Borrel bị hành quyết trong một nhà tù ở Pháp. Trong số những người bị giam cầm chỉ có duy nhất bà Odette Sansom sống sót sau chiến tranh. Thêm một nạn nhân khác của Prosper là Noor Inayat Khan. Ynayat Khan thuộc dòng dõi Indain, một nhà văn thiếu nhi, sinh trưởng trong gia đình gốc Hồi giáo.

Khi Đức chiếm cứ Pháp, Ynayat Khan cùng gia đình bà đã đào tẩu đến Anh. Sau đó bà gia nhập SOE và có bí danh là Madeleine. Ngày 16/6/1943, cùng với 2 đồng đội nữ SOE khác, Ynayat Khan bay đến Pháp để gia nhập tổ chức Prosper. Ynayat Khan là một nhà điều hành không dây có nhiệm vụ gửi và nhận các thông điệp mật đến và đi từ London. Bà đã hỗ trợ ít nhất 30 phi công bị bắn rơi và giúp họ quay về Anh an toàn. Tuy vậy, Gestapo sớm biết được việc bà đang làm, bà bị bắt giữ vào tháng 10/1943. Người Đức phá các mật mã của bà đã gửi thông tin giả về London. Ynayat Khan cùng các nữ điệp viên khác bị áp giải tới trại tập trung Dachau khét tiếng. Tất cả họ đều bị xử tử. Cái chết của Inayat Khan và các nữ điệp viên SOE chỉ là một phần của một âm mưu phản bội từ trong mạng lưới Prosper.

Trong một chiến dịch thất bại ở Pháp có thể là kẻ chỉ điểm nào đó trong hàng ngũ của tổ chức Prosper, một lượng không nhỏ các điệp viên Prosper đã bị vây bắt. Trong số họ là Yvonne Rudelatt, Frank Pickersgill và John Mcalister. Bà Rudelatt chết tại trại tập trung Belsen. Trước khi phong trào cách mạng sụp đổ, Suttill tự quay về London để thẩm vấn. Trong hồi ký của mình, tác giả Maurice Buckmaster hé lộ rằng Suttill đã gặp Thủ tướng Winston Churchill và lãnh đạo nói rằng quân Đồng Minh đã lập kế hoạch xâm lược Châu Âu trong năm 1943. Những người khác trong mạng lưới Prosper kể rằng Suttill có quay lại khẳng định với họ về việc xâm lược được lên kế hoạch vào năm 1943. Ngày 23/6/1944, Suttill bị người Đức bắt bên ngoài nơi trú ẩn ở Paris, ông bị Gestapo tra tấn dã man và bị hành hình.

Trùng trùng bí ẩn

Kẻ nào đã phản bội Suttill và mạng lưới Prosper? Ông M.R.D. Foot, sử gia về SOE ở Pháp, tuyên bố Claude Dansey phải chịu trách nhiệm phản bội Suttill. Ông Foot lập luận: “Ở Pháp có số đông tin rằng mạng lưới của Suttill đã bị phản bội bởi người Anh và những thông tin mật được chuyển trực tiếp đến Avenue Foch (trụ sở quân đội Đức ở Paris)”. Sau khi bị bắt giữ, Suttill được thẩm vấn bởi H.J. Kieffer (giám đốc cục phản gián SD ở Paris). Cuộc thẩm vấn khắc nghiệt kéo dài 3 ngày 3 đêm không cho phạm nhân nghỉ ngơi, ăn uống. Tuy vậy, Kieffer thẩm vấn Gilbert Norman, hé lộ một số bí mật quan trọng của Prosper bao gồm các địa điểm tọa lạc những sân bay của Phân đội F tại Pháp được sử dụng bởi tổ chức Prosper và tên các điệp viên đồng đội.

Kieffer thỏa thuận với cả Suttill và Norman rằng sẽ cứu mạng bất kỳ thành viên Prosper nào trong tương lai nếu họ bị bắt, đổi lại Suttill - Norman chịu hợp tác. Nhưng trong phân tích cuối cùng, người Đức đã phá vỡ hiệp ước khiến Suttill - Norman cùng bị xử tử. Đối với Henri Dericourt, dù Bodington đã bí mật đến Pháp để dò hỏi địa chỉ của Dericourt, nhưng linh tính mách bảo Dericourt đã không hé môi về nơi ở của mình để Bodington truyền đạt lại cho Kieffer. Dericourt quay về London trong tháng 2/1944. Cùng tháng đó diễn ra một cuộc điều tra được phát động bởi Chỉ huy không quân Archibald Boyle của SOE và H.N. Sporborg (phó chánh văn phòng SOE). Dericourt thừa nhận rằng mình có quan hệ với SD nhưng phải giả như thật vì tính cần thiết trong hoạt động tình báo. Cuối cùng, kẻ phản bội trong cái chết của Thiếu tá Francis Suttill và sự sụp đổ của mạng lưới Prosper vẫn là một trong những bí ẩn nhất của Thế chiến II.

Văn Chương (Tổng hợp)
.
.