Bi kịch của Sam Sheppard
Nửa đêm Sam tỉnh giấc và đối diện với một cảnh tượng kinh hoàng, Marilyn, vợ ông, đã bị sát hại dã man ngay trên giường. Khi đó Marilyn đang mang thai ở tháng thứ tư.
Điều gì đã xảy ra?
Sau khi vụ án xảy ra và Sheppard trở thành nghi phạm số một. Bệnh viện Bay View đã trở thành nơi đóng vai trò quan trọng xuyên suốt quá trình điều tra. Các bác sỹ, y tá, nhân viên, hay thậm chí là cả các bệnh nhân cũ của bác sỹ Sam tại bệnh viện được cảnh sát và các công tố viên thẩm tra nhiều lần để tìm kiếm những thông tin mà họ hy vọng là có thể giúp lần dấu ra kẻ giết người. Những câu hỏi được đưa ra bao trùm nhiều mặt đời sống và công việc của bác sỹ Sam, cũng như gia đình, các thói quen nói chung của ông. Tuy nhiên, các nhà điều tra không thể tìm thấy bất kỳ thông tin hữu ích nào ngoại trừ một sự thật là Sam Sheppard là một bác sỹ cực kỳ được yêu mến.
Theo lời của Sam, đêm hôm đó sau khi đi dạo, ông nán lại phòng khách và xem phim rất muộn, rồi ngủ quên. Nửa đêm, Sam giật mình tỉnh giấc và linh cảm có chuyện chẳng lành, ông chạy vội lên phòng ngủ của vợ. Một cảnh tượng kinh hoàng. Marilyn nằm gục trên sàn, người đầy máu. Sam kiểm tra nhịp tim của cô, nó đập rất yếu và rồi ngừng hẳn. Anh chạy sang phòng bên, cậu con trai vẫn ngủ ngon lành.
Nghe thấy tiếng động phía dưới nhà, Sam chạy vội ra phía cầu thang nhìn xuống và thấy một người mặc áo sơ mi trắng vội vã rời khỏi nhà qua cửa chính đã bị mở. Sam đuổi theo người này tới tận bãi cỏ gần nhà, hai người đã giằng co nhau tại đây cho đến khi Sam bị đánh bất tỉnh. Sam không nhớ mình đã bất tỉnh trong bao lâu và khi tỉnh dậy, ông quay lại nhà để gọi điện cho ngài thị trưởng và cũng là hàng xóm của mình, Spencer Houk, nhờ giúp đỡ.
Houk và vợ ông, Esther vội vàng tới nhà Sam. Bà Esther chạy lên tầng kiểm tra Marilyn trong khi chồng bà gọi điện thoại cho cảnh sát. Lúc đó là 5 giờ 57 phút ngày 4-7-1954.
Cảnh sát nhanh chóng có mặt tại nhà Sam và quyết định liên hệ với Sở Cảnh sát Cleveland do tính chất nghiêm trọng của vụ việc, yêu cầu các chuyên viên từ viện điều tra khoa học và những nhân viên điều tra nổi tiếng tham gia vào quá trình điều tra. Anh trai của Sam, bác sỹ Steve cũng có mặt không lâu sau đó. Steve nhanh chóng đưa Sam tới bệnh viện Bay View để điều trị chấn thương khi giằng co với hung thủ.
Gia đình bác sĩ Sam Sheppard. |
Chưa đầy một tiếng sau đó, ngôi nhà của bác sỹ Sam đã chật cứng các phóng viên. Những người hàng xóm hiếu kì cũng vây kín. 8 giờ sáng, Samuel R. Gerber, chuyên viên điều tra nhiều kinh nghiệm nhất tại Cleveland và cũng là nhân viên pháp y có mặt tại hiện trường. Theo Gerber, Marilyn bị giết trong khoảng thời gian từ 3 giờ đến 4 giờ sáng. Trên đầu Marilyn có tới 35 vết thương. Trong căn phòng, không có dấu hiệu nào của sự đột nhập từ bên ngoài.
Trong quá trình thẩm vấn bác sỹ Sam những ngày sau đó, các nhân viên điều tra đã hỏi về mối quan hệ của Sam với vợ và xác thực tin đồn mối quan hệ tình cảm giữa anh với một nhân viên y tá cũ ở bệnh viện Bay View, Susan Hayes. Họ cũng đặt ra rất nhiều thắc mắc về chuyện gì đã xảy ra trong khoảng thời gian 2-3 tiếng Sam phát hiện ra Marilyn bị giết? Tại sao anh không gọi cảnh sát ngay lúc đó? Tại sao không có dấu hiệu của sự đột nhập? Tại sao cảnh sát không tìm thấy dấu vân tay khác trong nhà? Tại sao con chó nhà bác sỹ Sam không sủa khi mọi việc diễn ra… Bác sỹ Sam chỉ có một câu trả lời duy nhất là "Tôi không biết".
Khi đó có rất nhiều thông tin trái chiều liên quan đến vụ án được cảnh sát cập nhật. Có người gọi điện thoại đến thông báo, một vài giờ trước khi xảy ra án mạng, họ nhìn thấy một người đàn ông mặc áo sơ mi trắng xuất hiện gần nhà bác sỹ Sam. Có thông tin cho rằng, mối quan hệ của Sam và Marilyn thời gian gần đây đang có vấn đề. Sam đã phủ nhận thông tin và khẳng định không hề có chuyện hai người có ý định ly hôn, cũng không hề có mối quan hệ tình cảm nào với một người phụ nữ tên là Susan Haynes. Tuy nhiên, sau đó Sam bị phát hiện nói dối về Haynes, điều trở thành thông tin bất lợi cho anh tại phiên tòa và khiến vị bác sỹ này trở thành nghi phạm số một.
Phiên tòa xét xử bác sỹ Sam thu hút sự chú ý của rất nhiều người, đặc biệt là giới báo chí Cleveland. Có nhiều thông tin trái chiều được đưa ra tại phiên tòa. Bác sỹ Steve, anh trai Sam là người đầu tiên đứng ra làm chứng bảo vệ Sam trong phiên tòa đầu tháng 12-1954. Theo Steve, Sam và vợ không hút thuốc, và điếu thuốc cháy dở được tìm thấy trong nhà vệ sinh ở nhà Sam hôm xảy ra án mạng chứng tỏ ngôi nhà đã có sự xuất hiện của người lạ.
Hai nhân viên kỹ thuật tại bệnh viện Bay View đã làm chứng cho việc Sam bị thương ngay hôm xảy ra án mạng. Bác sỹ Charles Elkins cũng xác nhận Sam bị đau đốt sống cổ, răng bị sứt và có một số vết thâm trên mặt chứng tỏ anh vừa trải qua một cuộc xô xát.
Hầu hết những bằng chứng cụ thể đều ủng hộ bác sỹ Sam và luật sư của anh. Tuy nhiên, lời khai không đúng sự thật trước đó về mối quan hệ tình cảm với Susan Haynes, cùng với những tin đồn về mối quan hệ đang bị rạn nứt với Marilyn được đăng tải tràn lan trên báo chí lại gây bất lợi cho Sam. Kết quả là đúng bốn ngày trước lễ Giáng sinh năm 1954, Sam bị tuyên án chung thân cho tội danh giết người dã man. Ngày 7-1-1955, mẹ Sam tự tử bằng một phát đạn vào đầu vì không chịu đựng được bản án dành cho con trai mình. Mười một ngày sau đó, cha bác sỹ Sam cũng qua đời do xuất huyết dạ dày.
Những bằng chứng
Sam Sheppard tưởng như phải sống trọn những năm tháng còn lại sau song sắt nhà tù nếu như không có sự xuất hiện của Tiến sĩ Paul Kirk, một chuyên gia hình sự và là một nhà tội phạm học ở Mỹ. Khi tiến sĩ Paul Kirk được phép xem lại hiện trường vụ án tại nhà bác sỹ Sam, ông đã tìm ra được rất nhiều bằng chứng chứng minh sự vô tội của bác sỹ Sam.
Con trai bác sĩ Sam, Samuel Reese Sheppard. |
Hồ sơ kháng cáo của luật sư William Corrigan bao gồm một tập tài liệu dày 56 trang do Tiến sĩ Pauld Kirk cung cấp với những bằng chứng mới. Bản kháng cáo nêu ra 29 lỗi sai của thẩm phán Edward Blythin, người chủ trì phiên tòa, cùng với sự thiếu công bằng trong quá trình điều tra vụ án năm đó.
Tại phiên tòa, Corrigan cho rằng dư luận cũng chính là một yếu tố lớn gây nên án oan đối với bác sỹ Sam bởi những bài viết của các phóng viên đã tác động đến phán quyết của bồi thẩm đoàn. Tuy nhiên, tháng 4-1956, Tòa án tối cao Ohio vẫn đã giữ nguyên bản án đối với bác sỹ Sam sau những nỗ lực kháng cáo của luật sư Corrigan.
Năm 1961, William Corrigan qua đời và người thay ông nhận vụ án này là luật sư F. Lee Bailey, một luật sư trẻ đầy nhiệt huyết, người đã tìm thêm được nhiều sai sót trong quá trình tố tụng trong việc xét xử Sam. Trong phiên tòa phúc thẩm, nhiều chi tiết bất ngờ đã được luật sư Bailey đưa ra, trong đó có những bằng chứng quan trọng chứng minh Sam vô tội.
Gia đình Sheppard có một chú chó tên là Koko. Điều lạ là Sam lại nói rằng ông không hề nghe thấy tiếng Koko vào đêm đó. Tuy nhiên, Eberling, người thợ lau kính từng đến nhà Sam trước đó vài tuần và cũng là người đánh cắp chiếc nhẫn của Marilyn, người từng bị đưa vào diện tình nghi, lại khai rằng Koko cũng không sủa khi nhìn thấy anh ta lần đầu tiên.
Cảnh sát không tìm thấy dấu vết cho thấy căn nhà đã bị đột nhập từ bên ngoài. Tuy nhiên, gia đình Ahern, những người đã ở cùng nhà Sheppard vào tối hôm trước, nói rằng họ không nhớ liệu Marilyn đã khóa cửa bếp hay chưa. Hơn thế nữa, luật sư biện hộ của Sheppard nói rằng có khả năng thủ phạm đột nhập từ lối vào hầm, vì có những dấu vết cho thấy khả năng này.
Sam nói rằng ông đã mặc một chiếc áo thun vào đêm Marilyn bị sát hại. Giả sử nếu Sam là kẻ sát nhân, chiếc áo này chắc chắn phải dính rất nhiều vết máu. Tuy nhiên, khi cảnh sát hỏi về chiếc áo, Sam chỉ trả lời: "Tôi không biết", một đáp án không mấy thuyết phục. Một chiếc áo thun bị rách cùng kích cỡ với Sam cuối cùng cũng đã được tìm thấy cách nhà Sam một đoạn. Tuy nhiên, trên áo không hề có vết máu nào.
Sam gọi cho Spencer Houk, chứ không phải cảnh sát, lúc 5 giờ 40 phút sáng. Nhân viên pháp y kết luận vụ sát hại diễn ra vào khoảng từ 3-4 giờ sáng, và đồng hồ của Sam dừng ở lúc 4:15. Câu hỏi đặt ra là tại sao mãi đến gần 6 giờ sáng Sam mới thông báo về vụ việc? Sam khai rằng ông đã bị kẻ lạ mặt tấn công và ngất đi sau đó. Có ý kiến cho rằng khoảng thời gian trống giữa lúc vụ việc diễn ra cho đến lúc Sam báo với Houk và cảnh sát cũng có thể đủ để ông xóa sạch dấu vân tay và các vết máu, giấu hoặc hủy chiếc áo thun, tạo hiện trường giả về một kẻ đột nhập nào đó.
Chiếc đồng hồ dính máu của Sam được tìm thấy trong một chiếc túi ở con dốc gần Hồ Erie. Chiếc đồng hồ tạm dừng lúc 4:15 (do ngấm nước) và sau đó chạy tiếp trước khi dừng hẳn ở 5 giờ. Sam nói rằng đồng hồ bị dính nước khi ông chơi golf dưới mưa. Vết máu trên đồng hồ được Sam giải thích có thể là do khi phát hiện xác Marilyn, và kẻ sát nhân đã cướp chiếc đồng hồ khi ông bất tỉnh, nhét nó vào chiếc túi và rồi đánh rơi trên đường tẩu thoát. Điều kỳ lạ là nếu kẻ sát nhân là một tên trộm thì tại sao ví của Sam không hề bị đánh cắp?
Các công tố viên cho rằng vết máu trên chiếc đồng hồ là vết máu khi Sam thực hiện hành vi tội ác của mình với Marilyn. Tuy nhiên, các chuyên gia của bên bị phản bác cho rằng vết máu trên đồng hồ không phải là vết máu bị bắn ra từ vụ giết người.
Bác sỹ William Fallon, Giám đốc trung tâm xác định và chẩn đoán chấn thương, xác nhận rằng vết thương ở cổ của Sam và những chỗ khác rất khó có thể tự do ông ngụy tạo. Dù vậy, có ý kiến cho rằng đó là những vết thương trong lúc Sam và Marilyn giằng co. Tuy nhiên, theo lời những người có mặt tại nhà Sheppard vào tối hôm trước, mối quan hệ giữa hai người rất tốt đẹp.
Theo kinh nghiệm của các nhà điều tra, đa phần những người chồng giết vợ mình thường có vài lần tấn công người bạn đời của mình trước đó. Tuy nhiên không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy Sam từng bạo hành Marilyn, và cũng không có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy Sam là một người có hành vi bạo lực. Hơn thế nữa, khi được tìm thấy, cơ thể của Marilyn bị lộ ra khá thô thiển, trái với tâm lý thông thường của một người chồng.
Máu vương vãi khắp căn phòng Marilyn bị sát hại. Nếu Sam là thủ phạm, chắc chắn vết máu sẽ lưu lại rất nhiều trên chiếc quần mà Sam mặc vào rạng sáng 4-7-1954. Tuy nhiên, ngoài vệt máu dài trên quần của Sam, người ta không tìm thấy bất kỳ vết máu nào khác trên chiếc quần này, hay trên tất và thắt lưng của Sam. Thực tế vết máu là thứ rất khó giặt sạch. Hơn thế nữa, theo chuyên gia về ADN Mohammed Tahir, vết máu trên quần bò của Sam không phải của ông hay Marilyn mà là từ một người khác, có thể là kẻ sát nhân.
Theo chuyên gia pháp y, kẻ giết người thuận tay trái còn Sam lại thuận tay phải.
Năm 1956, người thợ lau kính có tên Richard Eberling bị bắt vì tội trộm cắp. Trong số những món đồ có giá trị Eberling sở hữu, cảnh sát đã tìm thấy chiếc nhẫn của Marilyn Sheppard. Theo lời khai của Eberling, anh đã tới lau chùi cửa kính nhà Sam một vài ngày trước khi vụ án năm 1954 xảy ra. Trong khi lau chùi, Eberling có bị đứt tay và làm rớt vài giọt máu ở cầu thang tầng hầm. Eberling có nhóm máu A trong khi vết máu trên quần Sam có nhóm máu O. Những thông tin về người này sau đó không được cảnh sát điều tra lại.
Sự đền bù quá muộn màng
Ngày 16-7-1964, 10 năm 12 ngày sau khi xảy ra vụ án mạng, thẩm phán Tòa án tối cao Mỹ, Weinman đã đưa ra phán quyết mới dựa trên hồ sơ kháng cáo của luật sư Bailey, theo đó bác sỹ Sam Sheppard được tuyên trắng án và được trả tự do. Theo thẩm phán Weinman, người phải chịu trách nhiệm cho việc chịu án oan của Sam chính là giới báo chí Cleveland.
Sam Sheppard sau đó trải qua 2 cuộc hôn nhân được cho là không mấy hạnh phúc với hai người phụ nữ khác và sự nghiệp cũng không còn thăng hoa. Ngày 6-4-1970, bác sỹ Sam Sheppard được phát hiện đã chết trong nhà riêng của mình vì bệnh suy gan.
Vụ án đặc biệt và vẫn còn nhiều bí ẩn này đã gây tiếng vang lớn trong xã hội Mỹ và trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều bộ phim, như serie phim truyền hình năm 1960 hay bộ phim The Fugitive được sản xuất năm 1993.